Hotline: 0933 86 25 89

http://www.loctancuong.com

Đồi chè vùng Tân Cương Thái Nguyên

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Thái nguyên - Đệ nhất Danh Trà

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Trà Thái Nguyên - Thơm,Ngon, Đậm đà hương vị việt

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Chè Búp - Đặc sản vùng đất Tân Cương-Thái Nguyên

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Văn hóa thi Cây Chè Đẹp tại Sứ Trà Thái Nguyên

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Thứ Tư, 27 tháng 3, 2013

Chè Tân Cương - Thái Nguyên "vừa đẹp vừa ngon"


Khám phá khắp chiều dài của đất nước nơi nào qua mà lòng ta lại chẳng cảm thấy yêu thương vô ngần với từng miền quê, với bao phong vị riêng mà tạo hóa đã ưu ái ban tặng để rồi tụ hội cho dải đất hình chữ S tỏa ngàn hương sắc chẳng hề tàn phai qua phong ba lịch sử.

Mỗi một địa phương lại có một sản vật riêng không lẫn vào đâu được và là niềm tự hào vô bờ với bao tâm hồn Việt Nam. Đến với miền đất “đồng khởi” Bến Tre ta nghiêng mình dưới những bóng dừa bạt ngàn tươi mát. Hướng lòng mình về đất tổ Hùng Vương ta thấy mọi bộn bề của bể đời giường như tan biến giữa rừng cọ xòe bóng mát như ôm ấp, như trở che mỗi tấc đất linh thiêng với biết bao con người ưu tú. Rừng cọ đó, nay ta không thể không nhắc đến đồi chè, những đồi chè của “Thủ Đô gió ngàn” một thương hiệu chè nổi tiếng được trồng ở mảnh đất Tân Cương Thái Nguyên, nổi danh cả nước và là niềm tự hào của mảnh đất Thái Nguyên với bạn bè trong nước và quốc tế.

Nằm cách trung tâm thành phố Thái Nguyên 13 km về phía tây, Tân Cương là vùng đất bán sơn địa, cảnh quan thiên nhiên đẹp mắt. Bắt nguồn từ những cánh rừng trên núi, các con suối chảy róc rách men theo những chân đồi chảy về tưới mát cho cả vùng chè Tân Cương. Đến nơi đây, vào bất kỳ thời điểm nào ta cũng không khỏi ngỡ ngàng trước vẻ đẹp hùng vĩ, xanh mướt một màu của những nương chè. Nhưng không thể phủ nhận một điều rằng thiên nhiên sẽ tươi đẹp hơn bao giờ hết khi khoe mình trong nhan sắc xanh ngời của mùa xuân. Nếu như trên rẻo cao hoa ban, hoa đào trên núi nở trên các lưng đèo, sườn núi khi mùa xuân đến thì miền đất trung du Thái Nguyên lại như nở hoa xuân với những búp chè xanh mơn mởn và căng tròn nhựa sống trải dài vô tận trên đồi, trên nương. Mùa xuân ghé qua mang theo cái ấm áp đủ để ta thấy khoan khoái, dễ chịu khi vừa trải qua cái giá lạnh thấu xương da của ngày đông miền bắc. Những cơn mưa phùn lất phất bay đã tưới mát lên những nương chè khô hạn suốt một mùa đông dài. Những búp chè xanh non như cố vươn mình ra để đón lấy những hạt mưa xuân quý giá, đó chính là bước chuẩn bị tốt nhất cho sự sinh trưởng trước khi vào vụ thu hoạch đầu tiên của năm – vụ xuân. Thế là cả nương chè đã uống đầy tinh túy của đất trời, đã đạt đến độ phát triển chín nhất để người dân có một vụ chè bội thu. Hòa mình trong sương sớm mùa xuân, được thả tầm mắt chiêm ngưỡng tấm thảm xanh mướt dệt lên từ những chiếc “bát úp” xếp hàng thẳng tắp. Mưa xuân lất phất bay đọng lại long lanh trên những búp chè mỡ màng như muốn ướp thêm cho vị trà thêm đậm đà.


Hương vị chè xanh cũng như nói lên nỗi niềm của biết bao con người đã dày công vun đắp lên những nương chè là niềm tự hào của cảnh sắc tự nhiên, là niềm tự hào của mỗi vùng đất hay là của cả một Dân tộc. Vị trà xanh chát và đắng đặc trưng như được thấm trong đó những giọt mồ hôi,những giọt nước mắt của người dân xứ trà tự bao đời, những người đã làm nên thương hiệu không thể mờ nhạt trong tiềm thức của người dân đất việt, trong lòng của bạn bè Quốc tế. Ai mà không biết đến : “Chè Thái, gái Tuyên”.....Sắc xuân về trên những nương chè làm nên bao ấn tượng thật khó phai dấu về cảnh sắc,về con người và nhất là luôn mang đến niềm hân hoan và tự hào khó tả trong mỗi trái tim con người Thái Nguyên.

Sưu tầm và biên soạn: loctancuong.blogpost.com
Thông tin tư vấn:
CÔNG TY TNHH LỘC TÂN CƯƠNG
Mã Số Thuế: 0312393412
Nhà Máy SX : Xóm Nam Hưng, Xã Tân Cương, TP Thái Nguyên.

Tại Hà Nội:
Cửa hàng 1: 189 Giáp Nhất, Thượng Đình, Thanh Xuân, Hà Nội
(Giờ mở cửa: 8h - 18h, từ thứ 2 - thứ 7, nghỉ chủ nhật và ngày lễ)

Tại TP.HCM:
Cửa hàng 2 : Số 589 Hoàng Văn Thụ , Phường 4, Q. Tân Bình, TP HCM
(Giờ mở cửa: 8h - 21h, từ thứ 2 đến chủ nhật, ngày lễ làm bình thường)

Cửa Hàng 3 : 52A Thanh Đa, phường 27, quận Bình Thạnh, Tp.HCM
(Giờ mở cửa: 8h - 17h, từ thứ 2 - thứ 7, nghỉ chủ nhật và ngày lễ)

ĐT Hà Nội   : 024 7301 4747.

ĐT TP.HCM : 028 7300 4747.

HOTLINE    : 0933 862 589.


Email: loctancuong@gmail.com
Website: loctancuong.com 

Trà đạo Trung Hoa

Trà đạo Trung Hoa

Uống trà thời Trung Hoa cổ đại cũng giống như tu luyện, nó là một nghệ thuật và là cách để thưởng thức cuộc sống. Có nhiều loại trà: trà xanh, trà đen, trắng và trà thảo. Các mùa khác nhau sẽ có loại trà khác nhau.

Người ta nói rằng có bảy điều mà người dân Trung Hoa quan tâm trong cuộc sống hàng ngày của họ, đó là củi, gạo, dầu, muối, xì dầu, dấm và trà. Mặc dù trà được liệt kê ở cuối cùng của danh sách tuy nhiên nó vẫn có một lịch sử và ý nghĩa văn hóa quan trọng ở Trung Hoa.

Trung Hoa là nguồn gốc của trà và văn hóa trà, và trà gắn liền với đất nước Trung Hoa qua hơn 5000 năm. Mời khách một tách trà là một truyền thống tốt đẹp của Trung Hoa, người dân Trung Hoa từ lâu đã có truyền thống thưởng thức một tách trà sau bữa ăn hoặc dùng trà với thức ăn. Nó giống như cà phê đối với người phương Tây.

Theo truyền thuyết Trung Hoa, trà được phát hiện khi Thần Nông, một trong 3 vị hoàng đế xa xưa, được biết dến như người dược sỹ Trung Hoa đầu tiên, lang thang khắp nơi để tìm kiếm ra các loại thảo dược. Thần Nông có cái bụng trong suốt như pha lê. Bất cứ thứ gì ông ăn, ông đều có thể nhìn thấy nó rất rõ ràng thông qua cái bụng trong suốt của mình.

Một ngày nọ Thần Nông phát hiện một loại cây có lá màu xanh lá cây và hoa màu trắng, ông đã ăn lá của nó. Đột nhiên, ông nhận thấy cái gì lạ xảy ra trong dạ dày của mình – những chiếc lá không chỉ di chuyển xung quanh và làm sạch tất cả các thức ăn, mà chúng còn để lại hương thơm trong miệng và cảm giác tươi mát. Từ đó, Thần Nông sử dụng lá để trung hòa các loại cây thuốc độc khi ông làm thử nghiệm. Ông đã vô cùng hạnh phúc khi khám phá tác dụng giải độc của lá. Ông tin rằng sự phát hiện ra trà, thứ mà ông đặt tên là “cha”, được ban cho ông bởi các chư Thần bởi sự cảm kích của họ đối với lòng tốt và sự cố gắng tìm kiếm dược liệu để trị bệnh cho người dân trong lúc ông tuổi già như vậy.

Từ uống trà đến nếm trà
Tiệc trà ở Trung Hoa
Sau khi trà được phát hiện, nó đã đi qua nhiều giai đoạn phát triển. Ngày nay, những lá chè được pha với nước sôi làm thành trà. Vào thời cổ đại, trà đã được sử dụng như một loại thuốc. Trước đó, người ta chặt nhánh từ cây trà hoang dã, tuốt bỏ các lá ra khỏi chốt cây, luộc chúng và sau đó uống nước. Cái này được gọi là “cháo trà” hay “trà đắng”, vì trà làm theo cách này là rất đắng.

Vào thời nhà Tần và Hán, con người đã phát triển phương pháp mới để chuẩn bị và sử dụng trà. Thay vì nấu lá chè tươi, họ ráng các “bánh trà”, sau đó xay chúng thành bột. Nước đun sôi được thêm vào để pha trà. Họ trộn gừng, hành tây và cam vào nó và gọi nó là “bánh trà nướng (rang)”.

Văn hóa trà trở nên phổ biến vào thời nhà Đường. Dần dần, “nếm trà” trở thành “uống trà”. Tiệc trà được phổ biến ở cung điện hoàng gia, trong các đền thờ và giữa các học giả.

Không gian tại một bữa tiệc trà thường trang trọng và thanh lịch, và tuân theo nhữngquy định chặt chẽ các nghi thức. Trà được phục vụ phải có chất lượng cao và nước phải được lấy từ những con suối nổi tiếng. Trà được sử dụng cũng phải quý, hiếm có và chất lượng.

Tiệc trà thường bắt đầu với người có nhiệm vụ pha trà, hoặc giám sát việc pha trà, để thể hiện được sự tôn trọng khách. Tiếp theo là dâng trà, tiếp trà, ngửi trà, thưởng thức màu sắc của trà và nếm trà. Sau ba vòng, mọi người sẽ bắt đầu bình luận về trà, khen ngợi phẩm chất đạo đức tốt đẹp của chủ nhà, thưởng thức phong cảnh và đàm đạo hay viết văn hoặc làm thơ.

Trà đạo
Đến thời nhà Minh, người ta đổ nước trực tiếp vào ấm trà hay một tách trà có những lá trà rời rạc trong đó, làm trà uống đơn giản và thuận tiện hơn. Tuy nhiên, hầu hết đơn giản chỉ uống trà hơn là nếm trà.

Có một người đàn ông tên là Lục Vũ trong thời nhà Đường, sau nhiều năm quan sát và nghiên cứu, ông ta đã viết một cuốn sách mang tên “Trà Kinh”. Cuốn sách tóm tắt một tập các phương pháp, từ trồng chè và hái chè để pha trà và nếm trà. Nó cũng mô tả ý nghĩa văn hóa sâu sắc của nghệ thuật trà, và tạo nên hình dáng đầu tiên của trà đạo. Người đời sau gọi Lục Vũ là ‘’Ông Tổ của trà’’.

Văn hóa trà phản ánh đặc điểm của văn hóa truyền thống phương Đông – sự kết hợp của “trà” và “Đạo”. Thời Trung Hoa cổ xưa, Đạo hiện diện trong tất cả các ngành nghề, và mọi người cũng quan tâm đến việc theo Đạo. Vì vậy, cũng có Đạo trong việc nếm trà.

Trà Đạo cụ thể là “hài hòa, tĩnh lặng, mãn nguyện và trung thực”, và xem “tĩnh lặng” là một cách thức để đạt đến trạng thái vô ngã. Sự yên lặng trong trà Đạo Trung Hoa là nói đến sự tĩnh lặng trong các cảnh giới tâm linh, cùng với sự yên lặng hay thanh thản bên ngoài. Miễn là duy trì sự yên tĩnh bên trong tâm hồn, ta vẫn có thể thưởng thức những câu chuyện, vui cười, và thưởng thức âm nhạc.

Văn hóa trà là một loại “văn hoá trung gian”, nơi mà trà có chức năng làm vật mang để truyền tải và tiếp tục tinh thần của văn hoá truyền thống của Trung Hoa. Giống như Lưu Trinh Lượng đời nhà Đường nói về 10 đức hạnh trong uống trà: “Trà mang theo đạo và trà có thể tinh luyện ý chí con người”.
(Theo Secretchina)
Thông tin tư vấn:
CÔNG TY TNHH LỘC TÂN CƯƠNG
Mã Số Thuế: 0312393412
Nhà Máy SX : Xóm Nam Hưng, Xã Tân Cương, TP Thái Nguyên.

Tại Hà Nội:
Cửa hàng 1: 189 Giáp Nhất, Thượng Đình, Thanh Xuân, Hà Nội
(Giờ mở cửa: 8h - 18h, từ thứ 2 - thứ 7, nghỉ chủ nhật và ngày lễ)

Tại TP.HCM:
Cửa hàng 2 : Số 589 Hoàng Văn Thụ , Phường 4, Q. Tân Bình, TP HCM
(Giờ mở cửa: 8h - 21h, từ thứ 2 đến chủ nhật, ngày lễ làm bình thường)

Cửa Hàng 3 : 52A Thanh Đa, phường 27, quận Bình Thạnh, Tp.HCM
(Giờ mở cửa: 8h - 17h, từ thứ 2 - thứ 7, nghỉ chủ nhật và ngày lễ)

ĐT Hà Nội   : 024 7301 4747.

ĐT TP.HCM : 028 7300 4747.

HOTLINE    : 0933 862 589.


Email: loctancuong@gmail.com
Website: loctancuong.com 

Văn hóa thưởng trà Nhật Bản


Tạo nên được một vẻ đẹp đặc trưng không giống với bất cứ thói quen thưởng trà của các quốc gia khác trên thế giới, có lẽ bởi người Nhật có một quan niệm về ý nghĩa, tác dụng việc uống trà, cách thức pha trà cũng như thưởng trà… rất khác biệt và tuân thủ những quy tắc chặt chẽ.
Việc thưởng trà của người dân đất nước mặt trời mọc thể hiện hài hòa nét thẩm mỹ và tính triết học qua 4 yếu tố: wa - sự hài hòa (giữa con người và thiên nhiên), kei - sự tôn kính (đối với người khác), sei - sự tinh khiết (của tâm hồn) và jaku - sự yên tĩnh.

Với người Nhật, thưởng thức hương vị từng ngụm trà được coi là một hình thức giải trí. Đặc biệt, trong một không gian phù hợp, tĩnh lặng, khi đó người thưởng trà mới đạt được sự thư thái trong tâm hồn, sự thư giãn tinh thần và gần gũi, hòa hợp với thiên nhiên.

Uống trà mang đầy đủ những nét đặc trưng của văn hóa cũng như con người Nhật Bản. Việc thưởng trà không chỉ thể hiện sự tinh tế trong ẩm thực Nhật Bản mà còn thể hiện những triết lý, nhân sinh quan sâu sắc về cuộc sống. Không chỉ đơn thuần là việc thưởng trà, là ngon hay không ngon mà qua những chén trà đó, chúng ta thấy được tấm lòng giữa người với người trong cuộc sống, thể hiện tính giáo dục, nhân văn cao đẹp.

Vẻ đẹp tinh tế trong tâm hồn người thưởng trà cũng như tính giáo dục được thể hiện rõ nhất trong việc pha trà, rót trà, mời trà và cuối cùng là thưởng trà.

Cầu kì, khó tính từ việc pha trà…
 Dụng cụ pha trà của người Nhật Bản rất đa dạng, phong phú. Người pha trà cũng không chỉ đơn thuần thực hiện những thao tác bình thường mà gửi vào đó cả tấm chân tình của mình với khách quý. Nước dùng để pha trà cũng phải tuân theo những quy tác nghiêm ngặt nhất định. Nếu người Việt Nam có thói quen dùng nước sôi 100 độ để pha trà thì người Nhật lại hoàn toàn khác. Người Nhật có thói quen đựng nước pha trà trong một bình thủy tinh hay ấm kim khí và nước dùng nước khoảng 80 - 90 độ để pha trà. Người Nhật cho rằng trà được pha bằng thứ nước ở nhiệt độ đó trông mới đẹp mắt và giữ được hương trà đặc trưng, nguyên chất.

Ngoài ra, văn hóa trà Nhật Bản còn thể hiện những nét đẹp đặc trưng ở sự tinh tế trong tâm hồn người pha trà. Họ biết rõ ước lượng cho bao nhiêu nước pha vào bình trà tùy thuộc vào dung tích của loại tách dùng để thưởng trà cũng như số lượng tách trà được rót. Họ quan niệm, nếu đổ luôn một lần nước vào đầy bình thì lượng nước không uống hết còn sót lại sẽ làm giảm độ thơm ngon của lần uống trà kế tiếp. Như vậy nhiệt độ không còn đúng quy định làm mất đi màu sắc, tính thẩm mỹ của tách trà. Người Việt hiện nay cũng chịu ảnh hưởng văn hóa trà Nhật Bản nên cũng để ý đến số lượng người uống để ước lượng lượng nước, tuy nhiên vẫn không có “đủ” sự khắt khe, nghiêm ngặt như người Nhật.

Người Nhật cho rằng nước pha trà lần đầu tiên được coi là đậm đà nhất, vị ngon của trà thấm vào vị giác nhiều nhất. Nước thứ hai sẽ có hương vị khác nhờ nhiệt độ nóng của lần pha này, nước trà mất đi khá nhiều vị đặc biệt của trà nhưng lại có mùi rất thơm bốc lên, kích thích vào khứu giác. Hai lần nước pha trà này được coi là quan trọng nhất và có hương vị độc đáo nhất trong việc thưởng trà của Nhật Bản.

rót trà...
Không như người Việt là rót trà cho khách một lần đầy tách rồi rót tiếp cho người khách kế tiếp, người dân xứ sở hoa anh đào xếp tất cả các tách của khách và rót lần lượt đủ một vòng, sau đó rót một lần nữa và tách trà được rót đầu tiên của lần thứ hai chính là tách trà cuối cùng của lần rót đầu tiên. Người Nhật cho rằng với cách rót đó sẽ không tạo nên sự khác biệt về độ đậm nhạt của nước trà trong mỗi tách, cũng như không đều về lượng trong mỗi tách. Sau khi rót đều như vậy cho tất cả các tách thì mới đưa mời khách.


mời trà...
Cách thức mời trà của người Nhật rất độc đáo. Khách để hai tay xuống sàn nhà, cúi đầu chào mọi người, rồi cung kính nâng bát trà lên, xoay bát ba lần theo hướng kim đồng hồ, sau đó từ từ uống. Trà Nhật Bản không uống nhâm nhi từng tí một, người Nhật uống thành ngụm lớn để có đủ lượng nước trà thấm vào tất cả các màng niêm của miệng. Khi uống xong, khách xoay bát theo hướng ngược lại về chỗ cũ, rồi lại nhẹ nhàng đặt bát xuống. Khi tất cả đã uống xong, mọi người lại cúi mình chào nhau một cách kính cẩn rồi mới lần lượt ra về.




… đến thưởng trà
Người Nhật thường ăn một vài loại bánh ngọt trước khi uống trà để làm gia tăng hương vị. Chiếc bánh ngọt xinh xắn có hình dạng và màu sắc tùy theo từng dịp lễ hay theo mùa, chẳng hạn như hình lá momiji (một loại lá đỏ vào mùa thu), hay hình hoa sakura (hoa anh đào vào mùa xuân)...

Không chỉ đơn thuần là việc uống trà, thói quen thưởng trà của mỗi dân tộc chứa đựng trong đó cả những quan niệm, văn hóa… Qua việc uống trà của người Nhật cũng hiểu được phần nào vẻ đẹp tinh tế trong tâm hồn người Nhật cũng như triết lý về cuộc sống, hướng con người đến vẻ đẹp, tính nhân văn cao cả…
Sưu tầm và biên soạn: loctancuong.blogpost.com

[Chè Thái Nguyên]- Trà cho Sức Khỏe


Mai sớm một tuần trà.

Canh khuya dăm chén rượu.

Mỗi ngày mỗi được thế,

Thày thuốc xa nhà ta.


(Nguyễn Tuân 1962, tr.203)


Từ ngàn xưa, đạo học Đông phương chú trọng nhiều đến sự di dưỡng tinh thần. Từ nhiều thế kỷ, cổ nhân Đông phương đã biết đến ích lợi dưỡng sinh trong sinh hoạt uống trà hàng ngày. Một buổi pha trà đúng mức là cả một nghệ thuật. Nó đòi hỏi một sự tập trung tinh thần cao độ của kẻ pha trà. Nhất nhất mọi động tác đều phải nghiêm túc và kịp lúc. Cứ mỗi buổi sáng sớm, kẻ pha trà có dịp quẳng hết mọi ưu phiền trong cuộc sống, chăm chú vào một việc làm khiêm tốn, cẩn trọng đến độ gần như một thứ nghi lễ. Qua đó, hoạt động của các giác quan và trực giác được sử dụng một cách tối đa. Tâm thức của kẻ pha trà trong lúc ấy chỉ chuyên chú vào những gì đang xảy ra trước mắt; quá khứ và tương lai không có dịp làm bận tâm kẻ pha trà. Việc làm chăm chú này, mặc dù ngắn ngủi, lại không khác xa gì mấy với cứu cánh trong sự tu tập của Thiền tông, và chủ trương 'Nhất niệm- vạn niên' của Tịnh Độ tông. Tất cả đều nhằm đạt đến cái tâm không bị chi phối bởi ngoại cảnh. Học giả Lâm Ngữ Đường (Lin Yutang) cho chúng ta thấy rõ được điều này, qua sự mô tả cách thức pha và uống trà Tàu kiểu các tỉnh miền Bắc Trung Hoa:

    Thông thường hỏa lò được đặt trước cửa sổ, với than Tàu cứng chắc, cháy đỏ. Cảm nhận được tầm mức quan trọng của việc pha trà, chủ nhà vừa quạt lò, vừa chăm chú xem xét hơi nước bốc lên từ ấm đun. Khi bày biện xong một ấm trà nhỏ và bốn chén bé xinh xắn lên khay, ông dời hộp đựng trà gần phía khay để kịp lấy trà ra khi nước sôi sẵn sàng. Tuy tiếp chuyện với khách, ông không xao lãng việc pha trà của mình. Lúc ấm đun bắt đầu tạo ra tiếng, ông quạt than Tàu dồn dập hơn. Có lúc ông ngừng quạt, mở nắp ấm đun để quan sát những tăm nước nhỏ li ti xuất hiện ở đáy của ấm đun nước, rồi đậy nắp lại. Người sành điệu gọi những tăm nước sôi này là 'ngư nhãn' và 'giải nhãn'. Đây là thời điểm 'sôi nước đầu tiên'. Sau đó, ông chăm chú lắng nghe tiếng reo của nước với cường độ tăng dần cho đến khi tiếng sủi nước phát ra. Trong giai đoạn này, những tăm nước nhỏ xuất hiện chi chít trên vách của ấm đun. Đây là thời điểm 'sôi nước thứ nhì'. Kế tiếp, ông cẩn thận quan sát hơi nước sôi thoát ra từ vòi của ấm đun. Một vài giây khắc trước khi nước đạt độ sôi sùng sục của thời điểm 'thứ ba', ông nhắc ấm đun ra, rót vào bên trong lẫn bên ngoài của ấm trà để làm ấm trà nóng đều, và ngay lập tức, ông cho một lượng trà khô vào ấm. Nước trà loại này, tương tự như cách uống trà 'Thiết Quan Âm' kiểu người tỉnh Phước Kiến, thường rất đặc. Tuy ấm trà nhỏ đến độ không đủ rót đầy cho bốn tách trung bình, lại chứa đến một phần ba lá trà khô. Chính vì lượng trà nhiều như vậy nên khi nước trà được rót ra phải uống ngay lập tức. Lúc mọi người uống xong, ông lại châm nước tinh khiết vào ấm đun, đặt lên hỏa lò để pha bình trà thứ nhì. Theo sự nhận xét chuyên môn, bình trà thứ nhì được xem như ngon nhất. Nếu bình trà thứ nhất được so sánh như thiếu nữ tuổi mười ba, thì bình trà thứ nhì được xem như thiếu nữ mặn mà của tuổi mười sáu, và ấm thứ ba được ví như đàn bà (Lin Yutang 1939, tr.232-233).

Thú uống trà xưa
     Căn cứ vào sự diễn tả trên, một buổi uống trà  được xem như một sinh hoạt cả tay lẫn tâm trí. Theo quan niệm 'Trà nô, tửu tướng' của các nhà Nho, mỗi khi có khách đến chơi, pha trà là một đặc quyền dành cho chủ nhà. Qua đó, chủ nhà có dịp thể hiện sự hiểu biết về nghệ thuật pha trà và kín đáo hơn, cho khách thấy tâm hồn chuộng sự thanh tao của mình. Nguyễn Tuân (1962) còn cho rằng: „Chỉ có người tao nhã, cùng một thanh khí, mới có thể cùng nhau ngồi bên một ấm trà. Những lúc ấy, chủ nhân phải tự tay mình chế nước, nhất nhất cái gì cũng làm lấy cả, không dám nhờ đến người khác, sợ làm thế thì mất hết cả thành kính“ (tr.201). Thú uống trà vì vậy khác hẳn với thú uống rượu, khi việc rót rượu lại dành cho người khác. Ngoại trừ việc uống rượu vào buổi tối cho lưu thông các huyết mạch trước khi ngủ, thú uống rượu chú trọng về sự vui nhộn trong khi thú uống trà chủ về sự yên tịnh, lắng đọng tinh thần.

Lâm Ngữ Đường đề nghị thời điểm lý tưởng để uống trà khi nào người ta rảnh rang công việc; khi con cái đi học; khi buổi tiệc tàn và khách đã về; lúc có dịp chuyện trò thâu đêm với bạn cũ; trong ngày mưa nhẹ, hoặc ngày có gió hiu hiu; trong nhà nghỉ mát hướng về hồ sen trong một ngày Hè; trong rừng dưới gốc bụi tre cao vút, hoặc nơi đình chùa ẩn dật, ngay cả lúc tâm tư người ta bị khuấy động hoặc mệt mỏi sau khi đọc thơ văn. Tác giả khuyến cáo không nên uống trà trong những hoàn cảnh bị chia trí như tại nơi làm việc; khi xem một vở tuồng; lúc mở một lá thư; trong lúc mưa lớn hoặc tuyết rơi; trong một buổi tiệc rượu đông người và trong những ngày bận rộn. Ngoài ra, người uống nên tránh trẻ con khóc, gia nhân cọc cằn, cãi vã và người nóng tính. Những nơi nên tránh cho việc uống trà như nhà bếp, phòng ẩm thấp, nóng bức và đường xá ồn ào. Những vật dụng không nên sử dụng trong việc pha trà như nước không tinh khiết, thìa và ấm đun bằng đồng thau, khăn lau không sạch và than Tầu xốp (Lin Yutang 1939, tr.235-236).

     Những điều nên và không nên kể trên có một ích lợi dưỡng sinh lớn lao cho người uống trà. Công phu trong việc uống trà đòi hỏi người xưa tìm đến những nơi yên tĩnh, tránh những nơi ồn ào, hoặc người có thể gây xáo động tinh thần. Trà còn có tác dụng giúp người uống di dưỡng tinh thần sau những lúc đầu óc dao động với xúc cảm mạnh. Bên cạnh việc uống trà lúc sáng sớm, Nguyễn Tuân (1962) cho biết, các nhà Nho còn ngâm thơ lúc mới tỉnh giấc, khi vạn vật còn yên lặng, như một cách vận động thần khí kỳ diệu nhất cho lối sống nội tâm (tr.203). Ngoài những ích lợi về y học, các điều kiện lý tưởng cần thiết kể trên trong việc uống trà giúp thân và tâm người uống trà luôn an lạc. Đây chính là bí quyết dưỡng sinh của người Đông phương xưa.

[Uống Trà]-Phong các uống Trà Việt Nam

Trà Việt xưa nay vẫn vậy
     Người Nhật có lối uống trà rất khác biệt với các dân tộc khác, khi uống trà họ phải tuân giữ một vài nghi thức nên gọi là Trà đạo. Ðối với Trung Hoa và Việt Nam, lối uống trà chỉ được coi như là nghệ thuật mà thôi, nghệ thuật thì không cần phải khuôn sáo hay công thức.

     Phong cách uống trà của Việt Nam không hề bị ảnh hưởng của Tàu hay Nhật như quan niệm cuả nhiều người. Nghệ thuật uống trà phản ánh phong cách văn hoá ứng xử của người Việt Nam.Trong gia đình truyền thống, người nhỏ pha trà mời người lớn, phụ nữ pha trà mời các ông. Người ta có thể uống trà trong yên lặng suy gẫm như để giao hoà với thiên nhiên, như để tiếp cận giữa con người với môi trường, như để nhận xét, để thảo hoạch những dự án phúc lợi cho đại chúng. Khi đã trở thành thói quen rồi thì khó mà quên được.Trà đồng nghĩa với sự tỉnh thức, sáng suốt, mưu cầu điều thiện, xa điều ác.

    Theo truyền tụng, hình thức uống trà được khởi nguồn từ các chùa chiền gọi là Thiền Trà. Các nhà Sư thường uống trà trước các thời công phu sớm chiều. Cuộc đời trần tục nhiều hệ lụy, trà giúp cho con người tỉnh được mộng trần, rửa được lòng tục, xoá tan cảm giác tĩnh mịch chốn thiền môn. Ngày nay chỉ còn ngôi chuà Từ-Liêm ngoài Bắc là giữ được nghi thức Thiền Trà này.

    Sau đó, trà được ưa chuộng trong giới quý tộc, trong cung đình như là một bằng chứng của sự quyền quý, để phân biệt với giai cấp thứ dân trong xã hội phong kiến.

    Kế đến, trà chinh phục các tầng lớp trung lưu, nhất là các nhà Nho, các chú học trò "dài lưng tốn vải ăn no lại nằm", mượn bộ ấm trà để bàn luận văn chương thi phú, để tiêu khiển giải trí sau những giờ điên đầu vật vã với tứ thư ngũ kinh.

   Do đó, dần dà uống trà là một lối tiêu khiển thanh đạm được tất cả mọi giới ưa chuộng. Pha trà mời khách cũng phải tốn nhiều công phu hàm dưỡng và trở thành một nghi thức. Trà-phong Việt Nam thật là trân trọng ở cách dâng mời nhiều ngụ ý. Dù mưa nắng, sớm chiều, buồn vui khách không thể từ chối một chung trà trong khi gia chủ trang trọng hai tay dâng mời.

     Mời trà là một hành vi biểu hiện phong độ thanh nhã và hiếu khách của hầu hết các gia đình Việt Nam. Kỵ nhất là tiếp khách bằng những tách trà còn đóng ngấn hoen ố nước trà cũ. Cũng không bao giờ tiếp khách bằng một ấm nước trà nguội. Tách trà tiếp khách là thể hiện những tình cảm tối thiểu nhất, không thể tuỳ tiện coi thường, dù không nhất thiết phải là loại trà thượng hảo hạng.

     Uống trà cũng phải uống từ ngụm nhỏ, để cảm nhận hết cái dư vị thơm ngon cuả trà, cái hơi ấm cuả chén trà tỏa vào hai bàn tay ấp ủ nâng chén trong muà đông tháng giá, làm ấm lòng viễn khách. Uống trà là một cách biểu thị sự tâm đắc, trình độ văn hoá và cảm tình cùng người đối thoại. Trong ấm trà ngon, người cùng uống tâm đầu ý hợp, dưới ánh trăng thanh gió mát, ngắm khung cảnh tĩnh mịch của núi rừng mà luận bàn thế sự thì không còn gì thú vị hơn nữa. Chỉ có những tao nhân mặc khách mới thưởng thức được trọn vẹn cái phong vị cuả cách uống trà này, chứ không phải như kẻ phàm phu tục tử bưng ly trà to tổ bố lên uống ừng ực, người ta gọi là "ngưu ẩm" hay là uống như trâu uống nước.

     Ngoài các lối uống trà đơn giản đến cầu kỳ trong các gia đình Việt Nam, các cụ ngày xưa còn có những hình thức hội trà. Ðó là uống trà thưởng xuân, uống trà thưởng hoa, uống trà ngũ hương. Hội trà là tụ họp những người bạn sành điệu cùng chung vui trong các dịp đặc biệt hoặc có hộp trà ngon, hay có một chậu hoa quý hiếm trổ bông, hay trong nhà có giỗ chạp.

      Thưởng trà đầu xuân là thói quen cuả các cụ phong lưu, khá giả. Trước tết, các cụ tự đi chọn mua các cành mai, đào, thuỷ tiên hay các chậu hoa lan, hoa cúc ở tận các nhà vườn, và chuẩn bị đầy đủ các thứ cần thiết, nhất là một hộp trà hảo hạng. Sáng mồng một, cụ pha một bình trà và ngồi chỗ thích hợp nhất, thường là giữa nhà. Cụ ngồi tĩnh tâm, ngắm nhìn những đoá hoa nở rộ, thưởng trà. Khoảng 8 giờ sáng, cả đại gia đình sum họp quanh bàn trà chúc thọ cụ và nghe những lời dặn dò của Cụ. Trẻ con thì chờ lì xì.

     Uống trà thưởng hoa quý như hoa Quỳnh, hoa Trà, cũng là cái thú của nhiều người. Khi nhà cụ nào có một chậu hoa trổ, cụ chuẩn bị và mời các bạn già sành điệu tới ngắm hoa, luận bàn thế sự, hay dặn dò con cháu.

     Hội trà ngũ hương chỉ giới hạn có năm người thôi. Trên khay trà có năm lỗ trũng sâu, dưới các lỗ trũng đó để năm loại hoa đang độ ngát hương : Sen, Ngâu, Lài, Sói, Cúc. Úp chén trà che kín các hoa lại rồi mang khay để trên nồi nước sôi cho hương hoa bắt đầu xông lên bám vào lòng chén. Pha bình trà cho thật ngon rót đều vào từng chén, mỗi người tham dự sau khi uống trà phải đoán hương trà mình đã uống và nhận xét. Sau mỗi tuần trà lại hoán vị các chén trà để mọi người đều thưởng thức được hết tinh tuý của năm loại hoa.

Trà và Thiền


Trà và Thiền
    "Người tu có nhiều niềm vui giản dị. Uống trà chẳng hạn. Pha ấm trà ngon là cả một công phu. Có người có trà thơm, ấm tốt, nhưng không biết cách pha. Phải học. Không phải học cách pha trà. Mà là học cách uống. Trước tiên cần tập ngồi cho yên. Vừa cầm chén trà, vừa đi tới đi lui lăng xăng thì trà ngon cách mấy cũng uổng phí. Tập ngồi yên, tức là tĩnh tọa, hay ngồi thiền".

    Đến chùa, đôi khi ta được thầy đãi trà. Uống trà với thầy, ta học từ thầy cách ngồi yên. Đôi khi, một sư chú phải học ngồi uống trà với sư anh đến mấy năm, mới bắt đầu được sư anh cho pha trà. Ngồi yên thì tâm cũng yên. Tâm yên rồi thì rửa bình, rửa chén và bắt đầu pha trà đi! Nhiều khi trà không ngon lắm, nhưng biết cách pha thì vẫn thưởng thức được trọn vẹn hương và vị của nó. Ngược lại, trà ngon mà tâm còn đầy bụi trần thì pha ra vẫn lạt phèo.

      Một thú vui khác của người tu là đọc kinh. Đọc kinh cũng không khác uống trà gì mấy. Cuốn kinh vẫn nằm đó. Nhưng không phải ai lật kinh ra đều thấy chữ. Chữ trong kinh khác với chữ nghĩa nơi các cuốn sách thường. Chữ trong kinh là hoa trái của công phu. Người nào có công phu tu tập, nhìn vào kinh, chữ nghĩa đổi mới hoài. Mỗi lần đọc là một lần khám phá. Như vậy ta cần học đọc kinh, cũng như học cách pha trà.

    Có một thầy cho rằng thời buổi này giảng dạy các vị cư sĩ khó quá. Họ thuộc kinh còn giỏi hơn các thầy nữa. Tôi nói: ‘Đúng chớ. Đâu phải là tu sĩ mới hiểu kinh đâu. Nhưng không phải ai đọc kinh cũng hiểu nghĩa. Phải có tu tập. Không có tu tập thì đọc kinh càng nhiều, càng có nhiều hiểu lầm.’ Tuy vậy, ta vẫn phải giảng. Tại vì khi giảng kinh, ta nói từ những khám phá của chính ta. Những khám phá đó, có công năng làm cho người nghe thấy ra hướng thoát khổ.

    Nhiều khi người ta tụng một bài kinh thôi. Tụng hoài cả mấy chục năm nhưng không hiểu nghĩa. Hoặc có hiểu nghĩa thì cái hiểu đó không tiến thêm được chút nào. Như vậy đọc kinh cần phải học. Không phải học hiểu từng chữ, mà là học khám phá. Đọc kinh như vậy thú vị vô cùng. Buổi sáng, uống một ấm trà, đọc một trang kinh. Đó là thú vui tao nhã của người tu hành.


Ngoài ra, giữa uống trà và đọc kinh còn có một điểm giống nhau. Đó là sự thảnh thơi. Phải thảnh thơi thì mới thưởng thức được một bình trà. Phải thảnh thơi thì mới khám phá ra những cái mới mẻ trong kinh. Không gian trong tâm giúp ta có khả năng sáng tạo. Cho nên uống trà là một pháp môn tu mầu nhiệm vô cùng. Ngồi cho thật yên để uống một ấm trà, ta phải có khả năng buông bỏ. Có bao nhiêu việc cần làm phải không? Làm sao mà ta có thể ngồi yên mà thưởng thức một chung trà cho được? Nếu tâm ta đầy dẫy những niệm như vậy thì không bao giờ ta có thể hiểu được ý kinh cả. Tụng đi tụng lại hàng ngày không phải là điều kiện thuận lợi giúp ta hiểu kinh. Ta phải có không gian. Đọc một câu thôi, nhưng nếu tâm ta có không gian thì ta sẽ khám phá nhiều hơn tụng cả bài kinh trong tâm niệm hấp tấp, bất an.

    Như vậy uống trà tức là đọc kinh. Biết uống trà, thì mới biết đọc kinh. Nhìn một thầy pha trà, ta có thể thấy không gian ở trong lòng thầy. Cũng như nhìn vào cách bày biện trong một căn phòng, ta thấy được tâm của chủ nhân. Không gian giúp ta buông bỏ được những cái gì không thuộc về ta. Trở về được với chính mình, nhận diện đâu là mình, đâu là những cái thuộc về mình, tự nhiên ta có rất nhiều thảnh thơi. Ta biết ranh giới của ta. Những gì ta nên làm và những gì ta không nên làm. Ta sẽ bỏ được khuynh hướng muốn ôm vào lòng đủ thứ việc của thiên hạ.

     Đạo Bụt có tương lai hay không, tùy thuộc vào nghệ thuật pha trà và uống trà của người tu. Có một sư chú, tu học với thầy mình đã lâu mà vẫn không thấy thầy dạy mình học kinh. Một hôm, trong lúc uống trà với thầy, mới rụt rè hỏi: ‘Thưa thầy, tại sao con thấy thầy ít dạy con học kinh quá vậy?’ Thầy trả lời: ‘Khi nào con biết uống trà cho đàng hoàng thì thầy mới dạy con học kinh. Dạy sớm, thầy sợ con hiểu lầm lời giảng của thầy.’ Thật là một vị thầy xuất sắc.

Chén trà trong sương sớm


Bộ ấm trà Bát Tràng

Trời rét như cắt. Không kể tiểu hàn, không kể cả đến đại hàn, buổi sớm mùa đông nào, cụ Ấm cũng dậy từ lúc còn tối đất. Từ trên bàn thờ đức Thánh Quan, cụ nhắc cây đèn để xuống. Ðược khêu hai tim bấc nữa, cây đèn dầu sở phô thêm màu xanh lá mạ phủ trên chất sứ Bát Tràng.

La liệt trên chiếu cói cạp điều đã sờn cạnh,cụ ấm đã bày lên đấy khay trà, ống nhổ, ấm đồng và hỏa lò đất. Cái điếu bát vẽ Mai Hạc kêu vang lên một hồi rất giòn, rất đều. Khói thuốc lào đặc sánh lại bao chùm lấy ánh sáng yếu ớt của một ngọn đèn dầu. Rồi làn khói loãng dần biến ra màu nhờ nhờ như làn hơi nước sủi. Sau màn khói, ẩn hiện một ông già chống nạnh bên gối xếp, cặp mắt lim dim như một nhà sư nhập định. Vẻ nghiêm trang lặng thinh của ông già muốn làm ngừng cả áng khói trắng hiếu động đang trôi trong không khí gian nhà gạch. Ba gian nhà, chỉ có một người thức.

Trong cảnh trời đất lờ mờ chưa đủ phân rõ phần đêm và phần ngày, ông cụ Ấm có cả phong thái một triết nhân ngồi rình bước đi của thời gian. Ðêm đông dài không cùng. Nó mênh mông và tự hết rất chậm chạp.

Gió bấc thổi qua những kẽ cánh cửa bức bàn đã gửi vào nơi yên lăng này mươi lăm tiếng gà không nhẫn nhục được với tối tăm. Từ ngoài phía ngõ râm bụt lượn sát nhà gạch, dội vào những tiếng bước chân người nặng nề. Cuộc đời hồi tỉnh lại dần dần.

Cụ Ấm phẩy phành phạch quạt mo theo một nhịp nhanh chóng trước cửa hỏa lò. Hòn than tẩu lép bép nổ, nghe rất vui tai. Và làm vui cho cả mắt nữa, tàn lửa không có trật tự, không bị bó buộc kia còn vẽ lên một khoảng không gian những nét lửa ngang dọc, cong quèo ngoằng ngoèo. Những lúc có cháu nhỏ ngồi với mình,cụ Ấm thường hỏi xem chúng xem pháo hoa cải như thế có thích không.

Những hòn than tẩu cháy đều, màu đỏ ửng, có những tia lửa xanh lè vờn ở chung quanh. Không khí mỗi lúc giao động càng nâng cao thêm những ngọn lửa xang nhấp nho. Hòn lửa rất ngon lành, trở nên một khối đỏ tươi và trong suốt như thỏi vàng thổi chẩy.

Thỉnh thoảng, từ hòn than tự tiêu diệt buột ra một tiếng khô, rất khẽ và rất gọn. Thế rồi hòn than sống hết một đời khoảng chất. Bây giờ hòn than chỉ còn là một điểm lửa ấm ấp trong một cái vỏ tro tàn dầy và trắng xốp. Cụ Ấm vuốt lại hai mái tóc trắng, cầm thanh đóm dài đảo lộn tàn than trong hỏa lò, thăm hỏi cái hấp hối của lũ vô tri vô giác. Cụ Ấm bỏ thêm một vài hòn than hoa nữa vào hỏa lò. Than hoa không nổ lép bép như than tầu nhưng từ ruột ấm đồng bị nung nấu đã lâu, có tiếng thở dài của khối nước sắp biến thể. Nước đã lên tiếng để nhắc người ta nghĩ đến nó.Cụ Ấm cũng thở đánh phù một cái, như khi người ta được gặp lại bạn cố nhân sau nhiều giây phú mong chờ.

Cụ khẽ nâng vuông vải tây điều phủ trên khay trà gỗ khắc có chân quỳ. Nhẹ nhành, khoan thai, cụ Ấm nhắc cả đĩa dầm, chén tống, chén quân ra khỏi lòng khay. Ðến lúc dờ tới cái ấm con chuyên trà thì cụ kểnh càng hơn. Cụ ngắm nghía mãi chiếc ấm màu đỏ da chu, bóng không một chút gợn. Dáng ấm làm theo hình quả sung và khi luyện đất cho vào lò lửa, nguời thợ Tầu lấy dáng cho ấm kia đã là một người thợ có hoa tay. Cụ Ấm thử mãi da lòng tay mình vào mình cái ấm độc ẩm, hình như cố tìm tòi một chút gợn trên đất nung để được sung sướng hoàn toàn sau khi nhận thấy cái ấm độc ẩm kia là nhẵn nhụi quá.

Nước sôi già lắm rồi. Nhưng thói quen vẫn bắt cụ Ấm rót thử một chút nước xuống đất xem có thực là sôi không. Mở đầu cho công việc vụn vặt trong mỗi ngày tàn còn lại, ông già đã sợ nhất cái ấm trà tầu pha hỏng lúc sớm mai.

Từ trên bề cao cỗ sập, dòng nước sôi trút mạnh xuống nền đất trị, tiếng kêu lộp bộp.

Trên chiếc hỏa lò để không, cụ đã đặt thêm một ấm đồng cò bay khác. Những người uống trà dùng cách thức như cụ Ấm bao giờ cũng có ít ra là hai ấm đồng đun nước. ấm nước sôi nhắc ra khỏi lò than là đã có chiếc ấm thứ hai đặt lên đấy rồi. Và hai ấm đồng đó cứ được mãi mãi thay phiên nhau đặt lên lò than đỏ rực, vì bữa nước trà cứ kéo dài không hết hồi. Như thế lúc nào người ta cũng có một thứ nước sôi đủ độ nóng để pha một ấm trà ngon.

Nhưng có mấy khi cụ Ấm b tầu một cách tàn nhẫn như vậy. Riêng về phần cụ, chỉ hai chén con là đủ rồi.Nhưng hai chén đó đã được cụ săn sóc đến nhiều quá.

Chưa bao giờ ông già này dám cẩu thả trong cái thú chơi thanh đạm. Pha cho mình cũng như pha trà mời khách, cụ Ấm đã để vào đấy bao nhiêu công phu. Những công phu đó đã trở nên lễ nghi, nếu trong ấm trà pha ngon, người ta chịu nhận thấy một chút mùi thơ và một tị triết lý và tâm lý.

Cụ Ấm sau mỗi lần gặp phải một ông khách tạp,uống trà rất tục, cụ thường nói với vài bạn nhà nho:

- Có lẽ tôi phải mua ít chén có đĩa ở hiệu Tây, để mỗi khi có mấy thày làm việc bên Bảo Hộ tới thì đem ra mà chế nước pha sẵn trong bình tích. Các cụ cứ suy cái lẽ một bộ đồ trà chỉ có đến bốn chén quân thì các cụ đủ biết cái thú uống trà tầu không có thể ồn ào được. Lối giao du của cổ nhân đạm bạc chứ không huyên náo như bây giờ. Chỉ có người tao nhã,cùng một thanh khí, mới có thể cùng ngồi bên một ấm trà. Những lúc ấy, chủ nhân phải tự tay mình chế nước, nhất nhất cái gì cũng làm lấy cả, không dám nhờ đến người khác, sợ làm thế thì mất hết cả thành kính. Tôi còn nhớ hồi nhỏ, còn là học trò quan Ðốc, tôi đã được cái vinh dự sớm dậy, sớm nào cũng như sớm nào, đứng hầu trà cụ Ðốc, trước khi củ giảng bài và chấm cho anh em tập quyển.Nhiều người đã ghen tị với tôi và kêu ca với cụ Ðốc xin để cắt lượt học trò hầu trà, cho anh em ai nấy đều được chút vinh dự gần gũi thày và sớm chiều được gần cái đạo của thày. Quan Ðốc mỉm cười: "Thày giã ơn các anh. Thày nói thì các anh đừng giận:các anh không pha trà cho hợp ý thày được đâu. Ðể thời giờ ấy mà học. Anh Ðam - (trước kia tôi là Ðởm, sau sợ phạm húy nên cụ Ðốc mới đổi tên đi cho) - anh Ðam pha trà khéo thì thày để cho giữ việc hàu thày, chứ có phải thày yêu anh Ðam hơn hay là ghét các anh hơn đâu". Bây giờ mỗi buổi trà sớm, ngồi uống một mình, tôi cứ nhớ cái tiếng ngâm của quan Ðốc. Sớm nào dậy, cụ cũng ngâm một vài bài thơ. Giọng thật rền, thật trong. Cụ hay ngâm mấy câu này:

Bán dạ tam bôi tửu.

Bình minh sổ chản trà.

Mỗi nhật ừ... ừ... đều được ... y... như thử.

Lương y bất đảo gia.

Một buổi sớm, thấy rõ lòng thày là vui vẻ, tôi đã mạn phép đọc để cụ Ðốc chữa cho bài diễn nôm:

Mai sớm một tuần trà.

Canh khuya dăm chén rượu.

Mỗi ngày mỗi được thế,

Thày thuốc xa nhà ta.

Cụ Ðốc tạm cho là được.

Sớm nay, cụ Ấm cũng ngâm thơ. Cụ tin rằng ngâm thơ lúc yên lặng, lúc mới tỉnh giấc là một cách vận động thần khí kỳ diệu nhất của một người sống bằng cuộc đời tâm tưởng bên trong. Mỗi buổi sớm ngâm như thế là đủ tiết hết ra ngoài những cái nặng nề trong thân thể và để đón lấy khí lành đầu tiên của trời đất. Âu cũng là một quan niệm về vệ sinh của thời cũ. Và người xưa uống trà là để giữ mình cho lành mạnh.

Thường hay vấn mình để sửa mình vào những giờ uống trà tầu, cụ Ấm thường nghĩ đến câu nghìn xưa của thày TăngTứ: "Ngô nhật tam tỉnh ngô thân".

Trong nhà cụ Ấm  người ta đã ồn ào thức dậy.Cụ Ấm cũng bắt đầu ho. Chừng như hồi nãy, cụ đã tự nén hơi thở không dám ho, sợ làm đục mất cái phút bình lặng huyền bí của lúc đêm và ngày giao nhau.

Người con trưởng dón dén lại thỉnh an cha già và mon men ngồi ghé vào thành chiếc sập cũ. Chàng đỡ lấy quạt, nhắc hỏa lò ra một chỗ rộng, quạt mạnh cho hế tàn than.

- Thày uống xong rồi. Con uống thì pha mà uống.Trà còn đợm hương lắm.

Câu nói này là thừa. Vì sớm nào hai cha con ông Ấm chẳng dậy sớm để uống trà, cha bao giờ cũng uống trước hai chén và người con cả uống sau nhiều lắm đến ba chén là cùng. Sớm nay,cũng như lúc thỉnh thoảng của mọi ngày, cụ Ấm lại bắt người trưởng nam giở tập Cổ Văn ra bình lại cả bài "Trà Ca" của Lư Ðồng. Giọng bình văn tốt quá. Ðiệu cổ phong trúc trắc thế màcon cụ Ấm lại còn ngâm gối hạc bắt đoạn cuối một câu trên xuống luôn đầu câu dưới, hơi ngâm trong và dài. Trông hai tra con uống nước mà y như là một đôi thày trò vào một giờ học ôn buổi sớm mai. Chuyện vãn mãi về trà tầu, ông cụ Ấm lại mang luông cả tập"Vũ Trung Tùy Bút", giảng những đoạn công phu của tác giả -ông Quốc Tử Giám Tế Tửu Phạm Ðình Hổ - chiêm nghiệm và xưng tụng về trà tầu. Rồi cụ Ấm liền than tiếc đến cái mùa thu đã đi mất rồi, để sen hồ rách hết tàn rũ hết lá.

- Cả ạ, thày cho nước pha trà không gì thơm lành bằng cái thư nước đọng trong lá sen. Mỗi lá chỉ có ít thôi. Phải gạn vét ở nhiều lá mới đủ uống một ấm. Hồi thày còn ít tuổi, mỗi lúc được quan Ðốc truyền cho đi thuyền thúng vớt những giọt thủy ngân ấy ở lá sen mặt đầm, thày cho là kỳ thú nhất trong đời một người học trò được thày học yêu như con.

Trong gia đình cụ Ấm,  hồi gần đây đã lập lại cá phong tục uống trà. Có một hồi bần bách quá, cụ Ấm đã cất hẳn bộ đồ trà vào tủ, tưởng không bao giờ được bày nó ra hằng ngày nữa.Nhưng trời kể cũng còn hậu đãi người hàn nho,thế nào năm nay cụ Ấm lại được mùa cả hai vụ.

- Này cả, con lên tỉnh mua trữa lấy ít trà Lý Tú Uyên. Năm nay ta ướp thêm vài chục chai để dành. Thủy tiên nhà,năm nay gọt những một lắp đấy. Thày mua chung với cụ Kép xóm dưới! Ðộ mai kia thì giò hoa tách hết màng. Củ nào hoa kép thì đem ủ trà.

- Thưa thày, con tuởng trà cứ để nguyên hương của nó mà uống. Con thấy ông ngoại nhà không bao giờ cho ướp trà mới, bấy cứ là với hoa thơm nào. Ông ngoại con bảo chỉ nên ướp,là lúc trà đã đi hương hoặc gần phát du.

Trời rạng dần. Một chút nắng đào lóng lánh trong đám cây đang rụng dần lá năm cũ, một chiếc lại một chiếc. Ðạo mạo trong vành khăn nhiễu quấn dố, cụ Ấm đã chống gậy ra đi.Cụ quay trở lại dặn người con trưởng đang hí hoáy lau bộ khay trà:

- Thày vào trong cụ Ðiều để rồi cùng sang làng bên thăm một con bệnh già. Con bệnh này, tốn nhiều sâm lắm. Ðến tối thày mới về, vì thày phải sao tẩm thuốc sống ở bên ấy cho tiện.

Tác giả; Nguyễn tuân

Dược tính của Trà xanh

Hình ảnh: Nguồn Internet

      Theo thống kê, mỗi năm người Mỹ uống khoảng 2.25 tỉ gallon trà dưới mọi dạng thức: nóng, nguội, bỏ đá, ướp hương, có đường hay không đường, thêm mật ong, sữa, kem, chanh. Mỗi lượng trà uống trung bình chứa khoảng 40 milligram caffeine (bằng nửa caffeine trong cà phê). Thế nhưng đó chỉ là con số chia đều chứ uống trà mỗi người uống một cách, đậm nhạt khác nhau. Hiện nay trên thị trường có cả loại “decaffeinated tea” và nhiều loại dược trà dùng các loại lá (lá ổi, lá hồng ...) để trị bệnh và làm tan mỡ. 

      Những thống kê kinh tế cho thấy người Mỹ chuyển dẩn từ uống nước ngọt sang loại diet softdrink, sang nước lạnh (nước suối, nước cất ...) và dần dần sang loại trà hay dược trà (herbal tea). Nếu quả như thế, hóa ra Đông phương đã đi trước Tây phương một bước xa. Ông cha ta đã uống nước lạnh và uống trà tươi hàng ngàn năm trước nhưng mãi đến bây giờ nhân loại mới công nhận một cách khoa học là trà xanh (chưa biến chế theo kiểu Nhật) và nước lã là tốt nhất cho cơ thể.


     Nhiều người cho rằng uống trà có tác dụng làm giảm đau cổ họng và bớt đầy bụng. Một hóa chất trong trà là chất polyphenols có thể làm giảm nguy cơ một số chứng bệnh kể cả bệnh cứng mạch máu (atherosclerosis) và một số bệnh ung thư. Có người còn cho là uống trà sẽ gia tăng tuổi thọ.