Hotline: 0933 86 25 89

http://www.loctancuong.com

Đồi chè vùng Tân Cương Thái Nguyên

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Thái nguyên - Đệ nhất Danh Trà

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Trà Thái Nguyên - Thơm,Ngon, Đậm đà hương vị việt

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Chè Búp - Đặc sản vùng đất Tân Cương-Thái Nguyên

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Văn hóa thi Cây Chè Đẹp tại Sứ Trà Thái Nguyên

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Hiển thị các bài đăng có nhãn Làm đẹp với Trà xanh. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Làm đẹp với Trà xanh. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 26 tháng 3, 2013

Trà làm tăng có hội sống của người bị bệnh tim


      Trà cũng có thể bảo vệ cơ thể khỏi bệnh nhồi máu cơ tim
     Nghiên cứu mới cho thấy, những người hay uống trà dễ sống sót sau cơn đau tim hơn những người không nghiền nó. Uống 19 tách trà mỗi tuần giảm được 44% nguy cơ tử vong. Tác dụng này là do chất chống ôxy hóa trong trà đem lại.

      Các đệ tử của trà (dù là trà đen hay trà xanh, trà nóng hay trà đá) đều ít bị chết trong vòng 3-4 năm sau khi bị cơn đau tim so với những người thích dùng các đồ uống khác. Kết luận này được các nhà khoa học Mỹ đưa ra sau khi tiến hành nghiên cứu trên 1.900 bệnh nhân ở độ tuổi 60 bị một cơn đau tim. Họ được theo dõi trong vòng 4 năm, bắt đầu khoảng 4 ngày sau tai biến nói trên và được chia làm 3 nhóm:

- Nhóm 1: Không uống trà.

- Nhóm 2: Uống trà vừa phải (dưới 14 cốc/tuần trong vòng 1 năm trước khi bị cơn đau tim).

- Nhóm 3: Uống nhiều (hơn 14 cốc/tuần).

     Thống kê cho thấy, bệnh nhân thuộc nhóm 2 thường dùng 2 tách trà/tuần, còn những người thuộc nhóm 3 thường dùng 19 tách/tuần. Sau gần 4 năm, 313 người tham gia nghiên cứu đã chết (chủ yếu là vì bệnh tim mạch). Các tác giả nhận thấy, bệnh nhân càng uống nhiều trà thì nguy cơ tử vong trong 4 năm sau khi bị đau tim càng thấp: Nguy cơ tử vong giảm 28% ở nhóm uống trà vừa phải và 44% ở nhóm uống nhiều trà.

     Theo các tác giả, có thể việc sử dụng nhiều flavonoid (thành phần chính của trà) đã làm giảm nguy cơ bệnh mạch vành và nguy cơ tử vong ở những người bị bệnh tim mạch.

     Flavonoid là chất chống ôxy hóa tự nhiên có trong các đồ ăn có nguồn gốc thực vật như táo, hành và súp lơ xanh...
Sưu tầm: lotancuong.blogpost.com

Chữa trúng độc và các tổn thương da bằng trà



Trà đặc có tác dụng giải độc.
     Khi bị trúng độc hơi than, bệnh nhân cần uống ngay 3 cốc trà đặc để giải độc trước khi được đưa đến bệnh viện. Những người da bị nứt nẻ, rướm máu do trời hanh, có thể dùng ít búp chè tươi rửa sạch, giã nát, đắp vào chỗ tổn thương và băng lại. Như vậy, vết nứt sẽ nhanh chóng liền miệng.

     Trong y học cổ truyền, trà đặc được dùng làm thuốc giải độc trong các trường hợp uống nhầm phải kim loại, các thực vật hoặc chất kiềm độc hại. Chất axit tanic trong trà có thể làm lắng đọng và thải trừ kim loại, trì hoãn sự hấp thu chất độc của cơ thể.

     Sau đây là một số ứng dụng cụ thể của trà:

- Chữa trúng độc thủy ngân: Trà 30 g, hãm lấy nước đặc uống, sau đó uống ngay 500 ml sữa bò rồi đưa đến bệnh viện.

- Giải độc rượu: Uống liền mấy cốc trà đặc. Chất thein trong trà có thể hòa tan và làm loãng chất cồn, đồng thời không làm tổn hại đến tỳ vị.

- Chống ngứa, chữa các vết thương lở loét ở trẻ em: Lấy búp chè tươi nấu lấy nước đặc, rửa vết thương khi nước còn ấm. Cũng có thể dùng búp chè tươi rửa sạch, giã nát đắp vào chỗ tổn thương.

- Chữa sưng đau do chấn thương: Dùng búp chè tươi nhai nhỏ, đắp vào chỗ bị sưng đau (hoặc trộn với giấm để đắp), ngày 3 lần, mỗi lần 15 phút. Thuốc có tác dụng tiêu viêm, sát khuẩn, làm hết đau.

- Chữa ngứa da đầu: Dùng chè xanh nấu lấy nước đặc để gội đầu, sẽ hết ngứa.

TS Nguyễn Ninh Hải, Sức Khỏe & Đời Sống

Sưu tầm: loctancuong.blogpost.com

Uống trà xanh giúp làm giảm cholesterol


     Nếu bạn uống thật nhiều trà đen và trà xanh trong 3 tháng, kèm theo một chế độ ăn uống hợp lý, thì ngoài tác dụng ngăn ngừa một số bệnh ung thư và chống lão hoá, trà còn làm giảm 16% lượng cholesterol có hại trong máu bạn.

      Đây là kết quả một nghiên cứu mới nhất của tiến sĩ David Maron (Đại học Vanderbilt). Ông đã thử nghiệm loại thuốc viên chứa 375 milligram chiết xuất giầu theaflavin (chất chống ôxy hoá) từ trà xanh và trà đen trên 240 người cả nam giới và phụ nữ. Tất cả những người này đều đang thực hiện chế độ ăn kiêng ít chất béo. Họ được chia thành 2 nhóm:

- Nhóm 1 sử dụng loại thuốc nói trên, với tổng cộng lượng chiết xuất mỗi người sử dụng trong đợt thử nghiệm tương đương với 7 chén trà đen và 35 chén trà xanh.

- Nhóm 2 sử dụng giả dược.

Sau 12 tuần, những người nhóm 1 có mức giảm cholesterol đến 16% so với những người thuộc nhóm 2.

     Theo tiến sĩ Maron, mặc dù mức giảm này không cao bằng tác động của những loại thuốc làm giảm cholesterol, nhưng đây lại là một kết quả đáng kinh ngạc khi so sánh với các phương pháp làm giảm cholesterol không sử dụng hoá dược. Tuy nhiên, do sử dụng một viên thuốc chứa một hỗn hợp các chất chống ôxy hoá, nên nghiên cứu này không nhận biết được chất hay nhóm chất nào có khả năng làm giảm cholesterol.

      Trà là loại đồ uống chứa nhiều chất chống ôxy hoá nhất. Các nghiên cứu trước đây cho biết, trong trà xanh và trà đen có chứa các chất sát khuẩn, chống ung thư và chống lão hoá. Với kết quả nghiên cứu này, chúng ta biết thêm tác dụng làm giảm cholesterol. Tuy nhiên, chỉ uống trà không thôi thì không đủ để có thể làm giảm lượng cholesterol trong máu, nếu các thói quen ăn uống khác lại có tác dụng ngược lại. Điều này có thể giải thích tại sao những người hay uống trà như người Anh lại vẫn có lượng cholesterol trong máu cao.

      Mặc dù rất hài lòng với kết quả này, Maron vẫn cho rằng cần phải tiến hành các thử nghiệm sâu hơn để xác định xem về lâu dài nhóm chất này có gây hại cho cơ thể hay không và chúng tương tác với các dược phẩm làm giảm cholesterol khác như thế nào.

Nghiên cứu của Maron được tài trợ bởi một công ty sản xuất các chiết xuất từ trà.
Sưu tầm: loctancuong.blogpost.com

Thứ Hai, 25 tháng 3, 2013

"Đế quốc trà" và " Câu chuyện"


      Sau nước uống, trà (còn gọi là chè) là một trong những thức uống phổ biến nhất trên hành tinh. Và đó mới chỉ là một khía cạnh nhỏ trong lịch sử lâu dài của món thức uống này. Trước khi chúng ta có những cái bao trà để nhúng vào nước nóng, cái gọi là ''lá cây thơm ngát" đã là đề tài làm say mê biết bao nghệ nhân tạo nên những bình sứ thời xưa ở Việt Nam và Trung Quốc. Thời đó, trà còn được biết có nhiều công dụng như làm giảm tỉ lệ tử vong do nhiễm trùng qua đường nước uống; là chất xúc-tác khuyến khích cho các tay thực dân Âu châu; là chất châm ngòi cuộc chiến tranh Á phiện; là cảm hứng cho cho những nhà thiết kế thuyền bè vào thế kỉ 19th; và cung cấp sinh lực cho cuộc Cách mạng kĩ nghệ. Gần đây hơn, dĩ nhiên, trà còn được giới nghiên cứu y khoa ban cho một phước lành: là loại thức uống giàu chất phản-oxy, tức có lợi cho sức khỏe.
Văn hóa dùng trà ở thế kỷ 19 (ảnh minh họa)
     Nhưng khả năng tồn tại của trà không chỉ vì những hiệu năng thực tế như nêu trên. Trong hơn hai ngàn năm, giới thành thạo về trà đã tìm thấy trong trà một giá trị tinh thần cực kì đẹp đẽ. Như Kakuzo Okakura từng viết trong cuốn sách cổ điển có tên là "Quyển sách về Trà" xuất bản vào năm 1906: "Trà đạo là một giáo phái được sáng lập dựa trên lòng tôn thờ cái đẹp, cái đẹp giữa những thực tế nhớp nhúa trần ai."

Hai cuốn sách mới xuất bản mới đây của hai tác giả người Anh làm cho chúng ta hiểu rõ hơn giá trị tinh thần của trà. Quyển "Đế quốc trà" của Alan Macfarlane và mẹ ông, bà Iris Macfarlane, mở đầu với một hồi kí ngắn nhưng cảm động của Iris về nhận thức văn hóa mà bà mang theo cùng chồng đến nông trại trồng trà Assam. Bà viết: "Tôi lớn lên với tất cả những mưu mẹo, những lời nói hoa mĩ: rằng ‘Bên ấy ở Ấn Độ’ có những người da ngăm thấp kém không thể cứu chữa, những người rất may mắn được chúng ta cai trị". Sau đó, quyển sách mô tả tình trạng đối xử tàn bạo đối với những công nhân làm việc trong các nông trại trồng trà, làm cho những hồi tưởng của bà thêm buồn bã.

" Trà: Nghiện, Bóc lột, và Đế quốc," của Roy Moxham, một người từng quản lí đồn điền trồng trà ở Malawi, là một cuốn sách sử trà được trình bày một cách tao nhã và dễ thương, đặc biệt là chú trọng vào những biến động trong xã hội và những đợt di dân gian khổ theo các đồn điền trồng trà ở Ấn Độ và Tích Lan (nay là Sri Lanka). Moxham còn cung cấp cho chúng ta những thông tin mới nhất về tình hình chính trị và kinh doanh trà hiện nay.

     Cả hai sách tóm lược một cách súc tích lịch sử trà và những câu chuyện thần thoại bất diệt với thời gian. Cây trà – vâng, trong rừng nó là “cây trà”, và sau này vì nhu cầu sản xuất ở qui mô lớn trà được trồng một cách có tổ chức thẳng tấp bên sườn đồi – tiến hóa ở trong rừng thuộc vùng Đông Hi Mã Lạp Sơn. Những lá cây, trước đây người ta nhai để giữ sự tĩnh thức, và cuối cùng là pha chế thành thức uống. Bành trướng sang Trung Quốc, thức uống này được các nhà sư Phật giáo tiếp nhận như là một phương thức để tập trung tâm trí. Khởi đầu thế kỉ thứ 7 trước Công nguyên, trà bành trướng sang các tu viện Nhật Bản, nơi mà theo như mẹ con Macfarlane, "nó trở nên một trung tâm huyền bí và lễ nghi thần bí, xả thân và đạt đến sự hư không!"

    Như cả hai cuốn sách thuật lại, các nhà buôn bán Tây phương để ý đến trà vào khoảng thế kỉ 17. Năm 1660, một tờ báo Anh viết bài “Vertues of the Leaf TEA” (Ưu điểm của lá trà): “Nó làm cho cơ thể linh lợi, và cường tráng. Nó giúp chống lại nhức đầu, chóng mặt, và choáng váng . . . . Nó chế ngự ác mộng, làm cho não thoải mái, và tăng cường trí nhớ” Trong vòng một thế kỉ, tuyên truyền y khoa phát triển thành một nghệ thuật nhử cái đẹp, và trà nhảy tót lên một giai cấp mới. Như Samuel Johnson từng viết, "Ngay cả một người phụ nữ bình thường nghĩ rằng chị ta chưa có một buổi ăn sáng hoàn chỉnh nếu không có trà."
Trà vào buổi sáng
    “Đế quốc trà” phân tích một cách dí dỏm sắc nước của trà và qua đó suy luận về vai trò của trà trong việc duy trì một hệ thống trật tự xã hội theo đẳng cấp ở Anh. Tác giả còn tìm cách trả lời một câu hỏi bất diệt: Có phải quả thật trà đã thuần hóa người Anh? Có phải trà làm cho những người da trắng, ham ăn thịt đỏ và uống bia trở thành những người hiền lành hơn và dễ mến hơn?

    Không. Đó là câu trả lời. Những người Anh chủ đồn điền trà khinh miệt công nhân người bản xứ, họ cho đó là những cu-li (coolies). Họ đối xử tàn bạo đối với những phu người địa phương và gây cho cái chết cho hàng trăm ngàn người. Theo thống kê của Moxham, cho đến năm 1900, hơn 200 ngàn mẫu trà được khai khẩn và trồng trong rừng Assam, và nó làm mất đi sinh mạng của hàng trăm ngàn người phu Ấn Độ nhưng chỉ vài mạng người Anh. Đó chỉ là một thảm nạn trồng trà ở vùng Assam; nhiều thảm nạn còn xảy ra ở Darjeeling, Tích Lan (Ceylon), và nhiều nơi khác.

    Qui trình sản xuất trà ở Ấn Độ được mô phỏng theo tổ chức kĩ nghệ sau cuộc Cách mạng kĩ nghệ: giờ làm việc dài, điều kiện làm việc cực xấu, và thiếu an toàn. Macfarlane viết: “Công nhân trở thành một phần của bộ máy sản xuất khổng lồ. Trong bộ máy đó họ là những con người làm việc không hồn. Cái giá nhân sinh mà con người phải trả cho những công việc nhàm chán và không cần đến trí óc, đó là chưa kể đến tình trạng công nhân phải đứng hết giờ này sang giờ khác để hái trà. Thật khó tưởng tượng nổi!”
Công nhân làm việc tại đồi trà

    “Trà: Nghiện, Bóc lột, và Đế quốc” kể lại kinh nghiệm trồng trà của Moxham ở Phi châu. Qua phần giới thiệu, độc giả sẽ biết thêm những gì đã xảy ra cho tác giả trong năm đầu tiên trồng trà của tác giả. Cũng giống như rất nhiều hồi kí trồng trà khác, nhưng khác với trường hợp của Iris Macfarlane, Moxham mô tả sống động hơn và thật hơn. Nhưng tác giả không mấy thành công trong việc diễn dịch những kinh nghiệm cá nhân mình hay ý nghĩa của những câu chuyện mà tác giả muốn chuyển đến người đọc là gì.

Song, đó chỉ là một vài nhược điểm nhỏ của hai cuốn sách rất có giá trị trong lịch sử trà trên thế giới. Đọc cả hai cuốn liên tiếp, người đọc sẽ cảm thấy đề tài trà hay trà đạo sẽ cực kì thú vị.
NVT

(*) Một phần bài này được trích dẫn từ bài viết về trà của Madeline Drexler, đăng trên tờ Boston Globe, số ra ngày 30 tháng 5 năm 2004.

“The Empire of Tea: The Remarkable History of the Plant That Took Over the World” của Alan Macfarlane and Iris Macfarlane, Nhà xuất bản Overlook.

“Tea: Addiction, Exploitation, and Empire” của Roy Moxham, Nhà xuất bản Carroll & Graf.
Sưu tầm: loctancuong

Thứ Sáu, 22 tháng 3, 2013

Những lợi ích mà Trà mang lại

      Cách đây gần 2.000 năm, trà đã được các thầy thuốc Trung Quốc sử dụng như một vị thuốc giúp con người khỏe và trẻ hơn. Các nghiên cứu y khoa hiện đại cũng phát hiện ngày càng nhiều giá trị dược dụng của trà. Việc sử dụng hằng ngày loại đồ uống này có thể giúp phòng và chữa nhiều bệnh tật.
                                     

     Do chứa các chất chống ôxy hóa nên trà giúp làm chậm đi sự già cỗi của tế bào. Chất gallotanin trong trà ngăn chặn sự thoái hóa của tế bào thần kinh và kích thích quá trình phục hồi của chúng. Các flavonoide hạn chế sự lắng đọng cholesterol và xơ hóa mạch máu, làm giảm nguy cơ tai biến mạch máu não, nhồi máu cơ tim và tỷ lệ tử vong do các vấn đề tim mạch. Trà cũng có tác dụng kích thích thần kinh trung ương, giúp tinh thần hưng phấn, kích thích hô hấp và làm tim đập nhanh hơn.

        Nhiều nghiên cứu cho thấy, trà có khả năng phòng chống ung thư, ngăn chặn sự tổn thương ADN. Việc uống trà thường xuyên giúp giảm 50% nguy cơ ung thư dạ dày, 40% nguy cơ ung thư da (tỷ lệ này có thể lên đến 70% nếu uống trà với chanh). Thứ đồ uống này cũng giúp ngăn ngừa sự tiến triển của bệnh parkinson và hạn chế sự loãng xương ở người già.
                          
       Trà cũng được biết đến như một loại thuốc giải độc công hiệu. Trong Đông y, nó được dùng trong một số trường hợp nhiễm độc kiềm và thảo dược. Những người làm việc với tia phóng xạ vẫn xem thói quen uống trà hằng ngày là giải pháp tự bảo vệ mình trước các tia bức xạ độc hại. Các nhà khoa học cho biết, hoạt chất axit tanic trong trà còn có tác dụng thu giữ, làm lắng đọng các gốc kim loại tự do, có thể dùng cho những người bị nhiễm độc kim loại nặng, kể cả thủy ngân. Tình trạng nhiễm độc CO2 ở các lò than hay ngộ độc rượu cũng có thể giảm bớt nhờ uống trà đặc. Ngoài ra, chất tanin trong thứ đồ uống này còn có tác dụng làm se niêm mạc ruột, rất hiệu quả trong các trường hợp tiêu chảy cấp.

      Theo kinh nghiệm dân gian, có thể dùng nước trà tươi đậm đặc hoặc trà tươi giã nát đắp vào vết hăm, lở loét, viêm tấy hay các vết nứt da do lạnh để giúp vết thương mau lành. Còn để chữa bầm dập do chấn thương, có thể trộn búp chè tươi với dấm để đắp.
loctancuong siêu tầm

Chủ Nhật, 17 tháng 3, 2013

Trà xanh và sức khỏe


 Trà là một thức uống phổ biến vào hàng thứ hai trên thế giới (chỉ sau nước uống). Vì mức độ phổ biến của trà trong dân số, cho nên các nhà nghiên cứu y khoa rất quan tâm đến tiềm năng phòng chống bệnh tật của trà.  Một số nghiên cứu trên động vật cho thấy trà có khả năng chống ung thư và tác dụng tích cực đến tim. Tuy nhiên, các nghiên về mối liên hệ giữa trà và sức khỏe ở con người vẫn còn rất ít và kết quả vẫn chưa rõ ràng hay dứt khoát. Một trong những lí do của tình trạng bất định trong các nghiên cứu trà ở con người là vấn đề thiết kế nghiên cứu, số lượng đối tượng ít, thời gian theo dõi ngắn ... Vì thế cho đến nay, chúng ta vẫn chưa đủ dữ kiện để đi đến một kết luận đáng tin cậy. Để khắc phục các yếu điểm trên, các nhà nghiên cứu Nhật đã tiến hành một nghiên cứu qui mô ở 40.530 người và theo dõi một thời gian khá dài (trên 10 năm).
Giả thiết căn bản mà các nhà nghiên cứu đặt ra là: nếu trà xanh có tác dụng tích cực đến sức khỏe thì nó có thể làm giảm tỉ lệ tử vong do bệnh ung thư gây và bệnh tim mạch, bởi vì hai bệnh này là hai nguyên nhân hàng đầu dẫn đến tử vong trong dân số Nhật.
Công trình nghiên cứu được tiến hành ở quận Miyagi (thuộc vùng Đông Bắc nước Nhật). Khoảng 80% dân số quận Miyagi có truyền thống uống trà. Trong số này, gần phân nửa uống trà ít nhất là 3 tách một ngày. Các nhà nghiên cứu sử dụng một hệ thống thu thập dữ liệu gồm 40 câu hỏi về thói quen, thời lượng, tần số và lượng thức ăn và thức uống mà các đối tượng dùng hàng ngày. Đối với thức uống, họ hỏi đối tượng về dung lượng uống trà xanh, trà đen, và trà ô-long (oolong). Họ theo dõi các đối tượng trong 11 năm để ghi nhận số đối tượng qua đời và nguyên nhân tử vong.
      Kết quả nghiên cứu cho thấy ở 19.060 đàn ông, có 13.259 (gần 70%) người uống trà xanh ít nhất là 1 tách mỗi ngày. Ở phụ nữ, có 16.569 (77%) người uống trà xanh ít nhất là 1 tách mỗi ngày (xem bảng số 1 dưới đây).


Bảng 1. Tần số và thói quen uống trà xanh

Tử vong. Số liệu về mối liên hệ giữa trà xanh và nguy cơ tử vong được tóm tắt trong Bảng 2 dưới đây (tôi trình bày nguyên số liệu do tác giả cung cấp trong bài báo). Trong thời gian theo dõi (11 năm), các nhà nghiên cứu ghi nhận 2.668 tử vong ở nam giới và 1.541 tử vong ở nữ giới. Tỉ lệ tử vong tính trên 100 năm-người (person-years) ở nam giới là 1,51%, cao hơn khoảng 1,9 lần so với tỉ lệ ở nữ (0,78%).Phát hiện chính của nghiên cứu này có thể tóm lược qua các điểm chính sau đây:
Phân tích giữa hai nhóm (uống trà xanh và không uống trà xanh) cho thấy ở nam giới, những người uống trà xanh trên 4 tách mỗi ngày có tỉ lệ tử vong thấp hơn nhóm không uống trà xanh khoảng 12% và độ khác biệt này có ý nghĩa thống kê (tỉ số nguy cơ tương đối là 0.88 và khoảng tin cậy 95% là 0.78 – 1.00).
Ở nữ giới, tỉ lệ tử vong trong nhóm uống trà xanh là 0,76% và tỉ lệ này thấp hơn so với nhóm không uống trà xanh (0,83%). Tuy nhiên, chỉ co những người uống trên 5 tácn mỗi ngày thì độ khác bệit mới có ý nghĩa thống kê (tỉ số nguy cơ tương đối là 0.80 và khoảng tin cậy 95% là 0.68 – 0.94)

Bảng 2Tỉ lệ tử vong và tỉ số nguy cơ tương đối theo tần số uống trà xanh (số liệu theo dõi 11 năm)
Chỉ số thống kê
Tần số uống trà xanh mỗi ngày
Không uống
1-2 tách
3-4 tách
>4 tách
NamSố đối tượng
5801
4325
3895
5039
Năm-người
53348
39678
35984
47273
Số tử vong
747
541
584
796
Tỉ số nguy cơ tương đối
1.00
0.94
(0.82 – 1.07)
0.97
(0.85 – 1.10)
0.88
(0.78 – 1.00)
NữSố đối tượng
4901
4478
4944
7147
Năm-người
43779
40738
46137
67238
Số tử vong
362
331
336
512
Tỉ số nguy cơ tương đối
1.00
0.96
(0.81 – 1.15)
0.86
(0.72 – 1.02)
0.80
(0.68 – 0.94)

Chú thích: “Năm-người” ở đây là tạm dịch từ thuật ngữ “Person-years”. Để hiểu khái niệm năm-người, có thể xem một ví dụ 3 đối tượng sau đây: đối tượng A được theo dõi trong vòng 5 năm, đối tượng B được theo dõi trong 10 năm, và đối tượng C 7 năm. Do đó, tổng số năm-người là 5+10+7 = 22. Tỉ số nguy cơ tương đối (relative risk) ở đây có nghĩa là tỉ số giữa hai tỉ lệ tử vong. Chẳng hạn như tỉ số nguy cơ 0.80 (nhóm nữ uống trên 4 tách/ngày) có nghĩa là tỉ lệ tử vong trong nhóm này thấp hơn nhóm không uống trà khoảng 20%. Số trong ngoặc của tỉ số nguy cơ có nghĩa là khoảng tin cậy 95% (confidence interval). Khi khoảng tin cậy 95% hoàn toàn dưới 1 (như 0,68 đến 0,94) hay hoàn toàn trên 1 (như 1,10 đến 1,57) thì mối liên hệ có ý nghĩa thống kê (statistically significant); một khoảng tin cậy 95% dao động từ dưới 1 đến cao hơn 1 (như 0,72 đến 1,02) có nghĩa là mối liên hệ không có ý nghĩa thống kê.
      Tuy nhiên, tôi thấy các số liệu ở nam giới có vấn đề, và xu hướng tử vong có thể ngược lại những gì các tác giả này viết trong bài báo. Thật vậy, ở nam giới, những người uống trà xanh có nguy cơ tử vong cao hơn những người không uống trà xanh! Có thể sử dụng các số liệu trong Bảng 2 để làm vài tính toán đơn giản và thấy sự mâu thuẫn của các tác giả bài báo (xem bảng sưới đây). Như có thể thấy, tỉ lệ tử vong trong nhóm không uống trà xanh là 1,40% và trong nhóm uống trà xanh là 1,56%. Như vậy, nguy cơ tử vong trong nhóm uống trà xanh cao hơn 12% so với nhóm không uống trà xanh! Thật ra, có bằng chứng cho thấy nguy cơ tử vong có xu hướng tăng theo tần số uống trà xanh. Chẳng hạn như trong nhóm uống trên 4 tách / ngày, tỉ lệ tử vong cao hơn khoảng 20% so với nhóm không uống trà xanh. Do đó, có thể nói phát biểu của các tác giả về ảnh hưởng của trà xanh ở nhóm nam sai lầm nghiêm trọng. 

Bảng 2a. Tỉ lệ tử vong ở nam giới (phân tích lại)
Tần số uống trà xanh
Số năm-người (Person-years)
Số tử vong
Tỉ số tử vong trên 100 năm-người
Tỉ số nguy cơ
Không uống
53348
747
1,40
1,00
Uống 1-2 tách/ngày
39678
541
1,36
0,97
Uống 3-4 tách/ngày
35984
584
1,62
1,16
Uống trên 4 tách/ngày
47273
796
1,68
1,20
Nhóm uống trà xanh
122936
1921
1,56
1,12

Tử vong vì bệnh tim mạch và ung thư. Do khó khăn trong việc xác định dữ liệu, các nhà nghiên cứu chỉ có thể phân tích tỉ lệ tử vong theo từng nguyên nhân cho 7 năm (chứ không phải 11 năm như tổng số tử vong). Số liệu về tử vong vì bệnh tim mạch và ung thư được tóm lược trong Bảng 3 dưới đây.
Các số liệu này cho thấy có một xu hướng rõ rệt: uống trà xanh chỉ có ảnh hưởng tích cực đến sức khỏe (hiểu theo nghĩa giảm tỉ lệ tử vong) ở nữ giới, và ngay cả ở nhóm nữ, ảnh hưởng đó chỉ được ghi nhận đối với nguy cơ tử vong vì các bệnh tim mạch.


Bảng 3Tỉ lệ tử vong vì bệnh tim mạch và ung thư, và tỉ số nguy cơ tương đối theo tần số uống trà xanh (số liệu theo dõi 7 năm)
Chỉ số thống kê
Tần số uống trà xanh mỗi ngày
Không uống
1-2 tách
3-4 tách
>4 tách
Nam
Số năm-người
36003
26885
24250
31718
Bệnh tim mạch
149
103
98
131
Bệnh ung thư
179
142
175
243
Tỉ số nguy cơ tương đối – tim mạch
1.00
0.88
(0.68 – 1.14)
0.84
(0.64 – 1.09)
0.78
(0.61 – 1.00)
Tỉ số nguy cơ tương đối – ung thư
1.00
1.02
(0.77 – 1.35)
1.13
(0.86 – 1.48)
1.04
(0.80 – 1.35)
Nữ
Số năm-người
29653
27558
31040
44995
Bệnh tim mạch
112
83
84
132
Bệnh ung thư
77
87
90
141
Tỉ số nguy cơ tương đối – tim mạch
1.00
0.84
(0.63 – 1.12)
0.69
(0.52 – 0.93)
0.69
(0.53 – 0.90)
Tỉ số nguy cơ tương đối – ung thư
1.00
1.27
(0.98 – 1.74)
1.09
(0.79 – 1.49)
1.07
(0.80 – 1.44)

Chú thích: Xem chú thích Bảng 2.
Tuy nhiên, khi phân tích lại các số liệu trên, tôi thấy một lần nữa, các tác giả này đã phát biểu sai. Trong thực tế, các số liệu trên cho thấy vài xu hướng như sau:
Đối với nhóm nam, không có sự khác biệt đáng kể nào về tỉ lệ tử vong vì bệnh tim mạch giữa nhóm uống trà xanh và không uống trà xanh. Nhưng tỉ lệ tử vong vì bệnh ung thư trong nhóm uống trà xanh, tính trung bình, cao hơn khoảng 36% so với nhóm không uống trà xanh! (Xem Bảng 3a).

Bảng 3a. Tỉ lệ tử vong ở nam giới (phân tích lại)
Tần số uống trà xanh
Số năm-người (Person-years)
Tỉ số tử vong trên 100 năm-người
Tỉ số nguy cơ (relative risk)
Tim mạch
Ung thư
Tim mạch
Ung thư
Nam
Không uống
36003
0,41
0,71
1,00
1,00
Uống 1-2 tách/ngày
26885
0,38
0,85
0,93
1,06
Uống 3-4 tách/ngày
24250
0,40
1,09
0,98
1,45
>4 tách/ngày
31718
0,41
1,21
1,00
1,54
Nhóm uống trà xanh
82853
0,40
1,06
0,97
1,36
Nữ
Không uống
29653
0,38
0,26
1,00
1,00
Uống 1-2 tách/ngày
27558
0,30
0,32
0,80
1,22
Uống 3-4 tách/ngày
31040
0,27
0,29
0,72
1,12
>4 tách/ngày
44995
0,29
0,31
0,78
1,21
Nhóm uống trà xanh
103593
0,29
0,31
0,76
1,18

Vài nhận xét
Đây là một nghiên cứu thú vị về tác dụng của trà xanh đối với sức khỏe trong một cộng đồng tương đối lớn và được theo dõi khá lâu để có thể thu thập đủ số liệu cho phân tích. Thế mạnh của nghiên cứu này là một quần thể lớn, tỉ lệ người uống trà xanh khá cao, cho phép các nhà nghiên cứu có thể phân tích theo từng nhóm nhỏ.
Tuy nhiên, nghiên cứu này có quá nhiều khiếm khuyết và sai sót (dù được công bố trên một tập san y học hàng đầu trên thế giới, tức tập san JAMA). Những yếu điểm của nghiên cứu này có thể tóm lược qua vài điểm chính như sau:
  • Lượng trà xanh và thói quen uống trà mà các tác giả phân tích dựa vào sự cung cấp của các đối tượng, mà các nhà nghiên cứu không có cách nào để kiểm tra xem những thông tin đó chính xác cỡ nào. Thông thường các thông tin về lượng uống trà xanh không có độ chính xác cao, nhất là ở các đối tượng cao tuổi. Vì thế, các kết quả của nghiên cứu có thể thiếu tính khách quan.
  • Khoảng 10% đến 14% đối tượng mất liên lạc, cho nên các nhà nghiên cứu không thể phân tích toàn bộ quần thể mà phải dựa vào con số còn liên lạc được. Điều này có thể ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu, bởi vì những người mất liên lạc có thể là những người mà sức khỏe không mấy tốt và kết quả phân tích có thể nghiêng về nhóm lành mạnh!
  • Các nhà nghiên cứu tỏ ra mâu thuẫn, thậm chí sai lầm, trong các phát biểu về ảnh hưởng của trà xanh như tôi đã chỉ ra trong phần trên.
Nói tóm lại, nghiên cứu này tuy qui mô nhưng có quá nhiều sai sót, cho nên mối liên hệ giữa trà xanh và sức khỏe vẫn chưa được xác định rõ ràng.
Nguyễn Văn Tuấn