Hotline: 0933 86 25 89

http://www.loctancuong.com

Đồi chè vùng Tân Cương Thái Nguyên

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Thái nguyên - Đệ nhất Danh Trà

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Trà Thái Nguyên - Thơm,Ngon, Đậm đà hương vị việt

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Chè Búp - Đặc sản vùng đất Tân Cương-Thái Nguyên

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Văn hóa thi Cây Chè Đẹp tại Sứ Trà Thái Nguyên

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Thứ Hai, 25 tháng 3, 2013

"Đế quốc trà" và " Câu chuyện"


      Sau nước uống, trà (còn gọi là chè) là một trong những thức uống phổ biến nhất trên hành tinh. Và đó mới chỉ là một khía cạnh nhỏ trong lịch sử lâu dài của món thức uống này. Trước khi chúng ta có những cái bao trà để nhúng vào nước nóng, cái gọi là ''lá cây thơm ngát" đã là đề tài làm say mê biết bao nghệ nhân tạo nên những bình sứ thời xưa ở Việt Nam và Trung Quốc. Thời đó, trà còn được biết có nhiều công dụng như làm giảm tỉ lệ tử vong do nhiễm trùng qua đường nước uống; là chất xúc-tác khuyến khích cho các tay thực dân Âu châu; là chất châm ngòi cuộc chiến tranh Á phiện; là cảm hứng cho cho những nhà thiết kế thuyền bè vào thế kỉ 19th; và cung cấp sinh lực cho cuộc Cách mạng kĩ nghệ. Gần đây hơn, dĩ nhiên, trà còn được giới nghiên cứu y khoa ban cho một phước lành: là loại thức uống giàu chất phản-oxy, tức có lợi cho sức khỏe.
Văn hóa dùng trà ở thế kỷ 19 (ảnh minh họa)
     Nhưng khả năng tồn tại của trà không chỉ vì những hiệu năng thực tế như nêu trên. Trong hơn hai ngàn năm, giới thành thạo về trà đã tìm thấy trong trà một giá trị tinh thần cực kì đẹp đẽ. Như Kakuzo Okakura từng viết trong cuốn sách cổ điển có tên là "Quyển sách về Trà" xuất bản vào năm 1906: "Trà đạo là một giáo phái được sáng lập dựa trên lòng tôn thờ cái đẹp, cái đẹp giữa những thực tế nhớp nhúa trần ai."

Hai cuốn sách mới xuất bản mới đây của hai tác giả người Anh làm cho chúng ta hiểu rõ hơn giá trị tinh thần của trà. Quyển "Đế quốc trà" của Alan Macfarlane và mẹ ông, bà Iris Macfarlane, mở đầu với một hồi kí ngắn nhưng cảm động của Iris về nhận thức văn hóa mà bà mang theo cùng chồng đến nông trại trồng trà Assam. Bà viết: "Tôi lớn lên với tất cả những mưu mẹo, những lời nói hoa mĩ: rằng ‘Bên ấy ở Ấn Độ’ có những người da ngăm thấp kém không thể cứu chữa, những người rất may mắn được chúng ta cai trị". Sau đó, quyển sách mô tả tình trạng đối xử tàn bạo đối với những công nhân làm việc trong các nông trại trồng trà, làm cho những hồi tưởng của bà thêm buồn bã.

" Trà: Nghiện, Bóc lột, và Đế quốc," của Roy Moxham, một người từng quản lí đồn điền trồng trà ở Malawi, là một cuốn sách sử trà được trình bày một cách tao nhã và dễ thương, đặc biệt là chú trọng vào những biến động trong xã hội và những đợt di dân gian khổ theo các đồn điền trồng trà ở Ấn Độ và Tích Lan (nay là Sri Lanka). Moxham còn cung cấp cho chúng ta những thông tin mới nhất về tình hình chính trị và kinh doanh trà hiện nay.

     Cả hai sách tóm lược một cách súc tích lịch sử trà và những câu chuyện thần thoại bất diệt với thời gian. Cây trà – vâng, trong rừng nó là “cây trà”, và sau này vì nhu cầu sản xuất ở qui mô lớn trà được trồng một cách có tổ chức thẳng tấp bên sườn đồi – tiến hóa ở trong rừng thuộc vùng Đông Hi Mã Lạp Sơn. Những lá cây, trước đây người ta nhai để giữ sự tĩnh thức, và cuối cùng là pha chế thành thức uống. Bành trướng sang Trung Quốc, thức uống này được các nhà sư Phật giáo tiếp nhận như là một phương thức để tập trung tâm trí. Khởi đầu thế kỉ thứ 7 trước Công nguyên, trà bành trướng sang các tu viện Nhật Bản, nơi mà theo như mẹ con Macfarlane, "nó trở nên một trung tâm huyền bí và lễ nghi thần bí, xả thân và đạt đến sự hư không!"

    Như cả hai cuốn sách thuật lại, các nhà buôn bán Tây phương để ý đến trà vào khoảng thế kỉ 17. Năm 1660, một tờ báo Anh viết bài “Vertues of the Leaf TEA” (Ưu điểm của lá trà): “Nó làm cho cơ thể linh lợi, và cường tráng. Nó giúp chống lại nhức đầu, chóng mặt, và choáng váng . . . . Nó chế ngự ác mộng, làm cho não thoải mái, và tăng cường trí nhớ” Trong vòng một thế kỉ, tuyên truyền y khoa phát triển thành một nghệ thuật nhử cái đẹp, và trà nhảy tót lên một giai cấp mới. Như Samuel Johnson từng viết, "Ngay cả một người phụ nữ bình thường nghĩ rằng chị ta chưa có một buổi ăn sáng hoàn chỉnh nếu không có trà."
Trà vào buổi sáng
    “Đế quốc trà” phân tích một cách dí dỏm sắc nước của trà và qua đó suy luận về vai trò của trà trong việc duy trì một hệ thống trật tự xã hội theo đẳng cấp ở Anh. Tác giả còn tìm cách trả lời một câu hỏi bất diệt: Có phải quả thật trà đã thuần hóa người Anh? Có phải trà làm cho những người da trắng, ham ăn thịt đỏ và uống bia trở thành những người hiền lành hơn và dễ mến hơn?

    Không. Đó là câu trả lời. Những người Anh chủ đồn điền trà khinh miệt công nhân người bản xứ, họ cho đó là những cu-li (coolies). Họ đối xử tàn bạo đối với những phu người địa phương và gây cho cái chết cho hàng trăm ngàn người. Theo thống kê của Moxham, cho đến năm 1900, hơn 200 ngàn mẫu trà được khai khẩn và trồng trong rừng Assam, và nó làm mất đi sinh mạng của hàng trăm ngàn người phu Ấn Độ nhưng chỉ vài mạng người Anh. Đó chỉ là một thảm nạn trồng trà ở vùng Assam; nhiều thảm nạn còn xảy ra ở Darjeeling, Tích Lan (Ceylon), và nhiều nơi khác.

    Qui trình sản xuất trà ở Ấn Độ được mô phỏng theo tổ chức kĩ nghệ sau cuộc Cách mạng kĩ nghệ: giờ làm việc dài, điều kiện làm việc cực xấu, và thiếu an toàn. Macfarlane viết: “Công nhân trở thành một phần của bộ máy sản xuất khổng lồ. Trong bộ máy đó họ là những con người làm việc không hồn. Cái giá nhân sinh mà con người phải trả cho những công việc nhàm chán và không cần đến trí óc, đó là chưa kể đến tình trạng công nhân phải đứng hết giờ này sang giờ khác để hái trà. Thật khó tưởng tượng nổi!”
Công nhân làm việc tại đồi trà

    “Trà: Nghiện, Bóc lột, và Đế quốc” kể lại kinh nghiệm trồng trà của Moxham ở Phi châu. Qua phần giới thiệu, độc giả sẽ biết thêm những gì đã xảy ra cho tác giả trong năm đầu tiên trồng trà của tác giả. Cũng giống như rất nhiều hồi kí trồng trà khác, nhưng khác với trường hợp của Iris Macfarlane, Moxham mô tả sống động hơn và thật hơn. Nhưng tác giả không mấy thành công trong việc diễn dịch những kinh nghiệm cá nhân mình hay ý nghĩa của những câu chuyện mà tác giả muốn chuyển đến người đọc là gì.

Song, đó chỉ là một vài nhược điểm nhỏ của hai cuốn sách rất có giá trị trong lịch sử trà trên thế giới. Đọc cả hai cuốn liên tiếp, người đọc sẽ cảm thấy đề tài trà hay trà đạo sẽ cực kì thú vị.
NVT

(*) Một phần bài này được trích dẫn từ bài viết về trà của Madeline Drexler, đăng trên tờ Boston Globe, số ra ngày 30 tháng 5 năm 2004.

“The Empire of Tea: The Remarkable History of the Plant That Took Over the World” của Alan Macfarlane and Iris Macfarlane, Nhà xuất bản Overlook.

“Tea: Addiction, Exploitation, and Empire” của Roy Moxham, Nhà xuất bản Carroll & Graf.
Sưu tầm: loctancuong

Trà trong lịch sử văn hoá Việt Nam



Toàn thế giới có 40 nước trồng trà và kho dữ liệu trà của Trung Quốc đã khiến người ta cho rằng đó là quê hương của cây trà. Nhưng các tư liệu cổ và những kết quả nghiên cứu gần đây của các nhà khoa học nước ngoài cùng Hiệp hội Chè Việt Nam đã chỉ ra rằng trà không xuất xứ từ Trung Hoa (không thấy cây trà thiên nhiên hay cây trà hoang ở châu thổ sông Hoàng Hà).

Quê hương của cây trà ở tận phương Nam. Mặc dù người Trung Hoa đã biết đến trà từ đời Chu nhưng mãi đến thời kỳ nhà Tùy, cây trà mới từ phương Nam (Nam Chiểu xưa) và Việt Nam (Nam Việt xưa) nhập vào Trung Quốc. Ðến đất Trung Hoa, trà được chăm sóc tinh vi và sau nhiều năm tháng, trà được đưa lên hàng nghệ thuật. Thứ nữa, theo tài liệu khảo cứu của Uỷ ban Khoa học Xã hội thì người ta đã tìm thấy dấu tích của lá và cây chè hóa thạch ở đất tổ Hùng Vương (Phú Thọ). Xa hơn nữa, họ còn nghi ngờ cây chè có từ thời kỳ đồ đá Sơn Vi (văn hóa Hòa Bình). Cho đến nay, ở vùng Suối Giàng (Văn Chấn - Nghĩa Lộ - Yên Bái), trên độ cao 1.000m so với mặt biển, có một vùng chè hoang khoảng 40.000 cây chè dại, trong đó có một cây chè cổ thụ lớn nhất, ba người ôm không xuể. Như vậy, có thể nói Việt Nam chính là một trong những chiếc nôi cổ nhất của cây chè thế giới. Ngay từ thế kỷ XVIII, Phạm Ðình Hồ đã viết về uống trà từ trước đó hàng nghìn năm. Nguyễn Tuân có tùy bút về trà, Thạch Lam viết về trà xanh, Cao Bá Quát chê người uống trà ướp hương. Ca dao thì nói: “Làm trai biết đánh tổ tôm, uống trà mạn hảo xem nôm Thuý Kiều”... Chàng trai xưa còn tự hào: “Anh đây hay tửu hay tăm, hay nước trà đặc hay nằm ngủ trưa...”. Trà là cái thú của người lịch lãm, trong đó trà mạn (thứ tốt là trà mạn hảo) mà trước thường quen gọi là trà Tàu là thứ trà quý nhất.


Lịch sử trà Việt

Trà có nhiều loại. Người nông thôn trồng mấy gốc trà bởi có thú ra vườn tuốt mấy nắm lá, hãm một nồi to, ăn khoai luộc, hút thuốc lào... Sang hơn có trà “mật vịt” (trà xanh pha đặc như mật con vịt). Trà hạt là nụ trà phơi khô, ủ vào tích có hoa cúc chi hoặc mấy lát gừng cho ấm giọng. Xoàng là trà bồm, lá già, tận dụng khi đốn đau cây trà để chờ lứa trà búp mới mùa xuân. Trà bánh còn “xoàng” hơn nữa, giống như một thời có loại chè ba hào hoặc nói vui "chín hào ba" (chín hào ba gói), nước vàng vàng mà không hương không vị. Người Nghệ An, Hà Tĩnh có tục mời nhau uống chè tươi, chè xanh vì họ coi trọng tình làng nghĩa xóm. Mùa hè nóng, đi làm đồng về, thứ quý nhất là bát chè xanh đặc pha chút đường. Trà mạn xưa cũng là trà lá già, sau ướp sen thành trà mạn sen là thứ quý. Thời bao cấp, trà loại hai đã là quý. Tết mới được phân phối mỗi gia đình một gói, trà loại một đã là mừng lắm, đó là Thanh Hương, Thanh Tâm, gói 50 gram. Hai loại trà ngon nhất Việt Nam là trà Thái Nguyên và Trà tuyết Suối Giàng bởi do đặc điểm vùng tiểu khí hậu, trà trồng ở nơi ấy có tỷ lệ đường, caffein nhiều hơn và tỷ lệ tananh (chất chát) ít hơn so với trà trồng ở các tỉnh khác.

Trà Tân Cương Thái Nguyên


Không chỉ là thứ đồ uống thơm ngon, trà còn là một loại dược thảo rất tốt. Các nghiên cứu khoa học đã chỉ ra trong lá chè có chứa 20% tananh có tác dụng sát khuẩn mạnh, một lượng lớn caffêin, hợp chất thơm, tinh dầu cùng một số loại vitamin... Hai công dụng lớn nhất của lá chè là làm tăng tuần hoàn máu, tăng cường chức năng hoạt động của thận và giúp tế bào AND tái tạo, giảm bớt các đột biến gen có thể dẫn đến ung thư, chữa bệnh sâu răng, kích thích hệ thần kinh trung ương giúp cho tinh thần sảng khoái. Caffein trong trà giúp cho lợi niệu, dễ tiêu hóa, chữa chứng xơ vữa động mạch, loại trừ chất độc trong cơ thể, lưu thông khí huyết. Dân gian Việt Nam và Trung Quốc còn lưu truyền vô vàn cách chữa bệnh bằng chè. Người xưa có thơ rằng: Bán dạ tam bôi tửu / Bình minh sổ trản trà / Mỗi nhật cứ như thử / Lương y bất đáo gia (Mai sớm một tuần trà / Canh khuya dăm chén rượu / Mỗi ngày được như thế / Thầy thuốc xa nhà ta). Nhưng có lẽ trà quan trọng và nổi tiếng hơn chính vì ở nhiều nước, việc uống trà đã trở thành nét đẹp truyền thống văn hóa, tiêu biểu là Văn hóa Thiền. Nét đẹp nhất của văn hóa Thiền tông là thế giới thuần khiết, thanh tịnh, tao nhã và êm dịu. Nói đến nghệ thuật thưởng trà Việt Nam là người ta lại nhắc đến thú uống trà của người Hà Nội bởi vẻ thanh lịch, trang nhã, sự cầu kỳ trong ẩm thực của người Hà Nội đã nâng tính thẩm mỹ của chén trà lên một trình độ rất cao.