Hotline: 0933 86 25 89

http://www.loctancuong.com

Đồi chè vùng Tân Cương Thái Nguyên

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Thái nguyên - Đệ nhất Danh Trà

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Trà Thái Nguyên - Thơm,Ngon, Đậm đà hương vị việt

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Chè Búp - Đặc sản vùng đất Tân Cương-Thái Nguyên

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Văn hóa thi Cây Chè Đẹp tại Sứ Trà Thái Nguyên

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Thứ Tư, 27 tháng 3, 2013

Chén trà trong sương sớm


Bộ ấm trà Bát Tràng

Trời rét như cắt. Không kể tiểu hàn, không kể cả đến đại hàn, buổi sớm mùa đông nào, cụ Ấm cũng dậy từ lúc còn tối đất. Từ trên bàn thờ đức Thánh Quan, cụ nhắc cây đèn để xuống. Ðược khêu hai tim bấc nữa, cây đèn dầu sở phô thêm màu xanh lá mạ phủ trên chất sứ Bát Tràng.

La liệt trên chiếu cói cạp điều đã sờn cạnh,cụ ấm đã bày lên đấy khay trà, ống nhổ, ấm đồng và hỏa lò đất. Cái điếu bát vẽ Mai Hạc kêu vang lên một hồi rất giòn, rất đều. Khói thuốc lào đặc sánh lại bao chùm lấy ánh sáng yếu ớt của một ngọn đèn dầu. Rồi làn khói loãng dần biến ra màu nhờ nhờ như làn hơi nước sủi. Sau màn khói, ẩn hiện một ông già chống nạnh bên gối xếp, cặp mắt lim dim như một nhà sư nhập định. Vẻ nghiêm trang lặng thinh của ông già muốn làm ngừng cả áng khói trắng hiếu động đang trôi trong không khí gian nhà gạch. Ba gian nhà, chỉ có một người thức.

Trong cảnh trời đất lờ mờ chưa đủ phân rõ phần đêm và phần ngày, ông cụ Ấm có cả phong thái một triết nhân ngồi rình bước đi của thời gian. Ðêm đông dài không cùng. Nó mênh mông và tự hết rất chậm chạp.

Gió bấc thổi qua những kẽ cánh cửa bức bàn đã gửi vào nơi yên lăng này mươi lăm tiếng gà không nhẫn nhục được với tối tăm. Từ ngoài phía ngõ râm bụt lượn sát nhà gạch, dội vào những tiếng bước chân người nặng nề. Cuộc đời hồi tỉnh lại dần dần.

Cụ Ấm phẩy phành phạch quạt mo theo một nhịp nhanh chóng trước cửa hỏa lò. Hòn than tẩu lép bép nổ, nghe rất vui tai. Và làm vui cho cả mắt nữa, tàn lửa không có trật tự, không bị bó buộc kia còn vẽ lên một khoảng không gian những nét lửa ngang dọc, cong quèo ngoằng ngoèo. Những lúc có cháu nhỏ ngồi với mình,cụ Ấm thường hỏi xem chúng xem pháo hoa cải như thế có thích không.

Những hòn than tẩu cháy đều, màu đỏ ửng, có những tia lửa xanh lè vờn ở chung quanh. Không khí mỗi lúc giao động càng nâng cao thêm những ngọn lửa xang nhấp nho. Hòn lửa rất ngon lành, trở nên một khối đỏ tươi và trong suốt như thỏi vàng thổi chẩy.

Thỉnh thoảng, từ hòn than tự tiêu diệt buột ra một tiếng khô, rất khẽ và rất gọn. Thế rồi hòn than sống hết một đời khoảng chất. Bây giờ hòn than chỉ còn là một điểm lửa ấm ấp trong một cái vỏ tro tàn dầy và trắng xốp. Cụ Ấm vuốt lại hai mái tóc trắng, cầm thanh đóm dài đảo lộn tàn than trong hỏa lò, thăm hỏi cái hấp hối của lũ vô tri vô giác. Cụ Ấm bỏ thêm một vài hòn than hoa nữa vào hỏa lò. Than hoa không nổ lép bép như than tầu nhưng từ ruột ấm đồng bị nung nấu đã lâu, có tiếng thở dài của khối nước sắp biến thể. Nước đã lên tiếng để nhắc người ta nghĩ đến nó.Cụ Ấm cũng thở đánh phù một cái, như khi người ta được gặp lại bạn cố nhân sau nhiều giây phú mong chờ.

Cụ khẽ nâng vuông vải tây điều phủ trên khay trà gỗ khắc có chân quỳ. Nhẹ nhành, khoan thai, cụ Ấm nhắc cả đĩa dầm, chén tống, chén quân ra khỏi lòng khay. Ðến lúc dờ tới cái ấm con chuyên trà thì cụ kểnh càng hơn. Cụ ngắm nghía mãi chiếc ấm màu đỏ da chu, bóng không một chút gợn. Dáng ấm làm theo hình quả sung và khi luyện đất cho vào lò lửa, nguời thợ Tầu lấy dáng cho ấm kia đã là một người thợ có hoa tay. Cụ Ấm thử mãi da lòng tay mình vào mình cái ấm độc ẩm, hình như cố tìm tòi một chút gợn trên đất nung để được sung sướng hoàn toàn sau khi nhận thấy cái ấm độc ẩm kia là nhẵn nhụi quá.

Nước sôi già lắm rồi. Nhưng thói quen vẫn bắt cụ Ấm rót thử một chút nước xuống đất xem có thực là sôi không. Mở đầu cho công việc vụn vặt trong mỗi ngày tàn còn lại, ông già đã sợ nhất cái ấm trà tầu pha hỏng lúc sớm mai.

Từ trên bề cao cỗ sập, dòng nước sôi trút mạnh xuống nền đất trị, tiếng kêu lộp bộp.

Trên chiếc hỏa lò để không, cụ đã đặt thêm một ấm đồng cò bay khác. Những người uống trà dùng cách thức như cụ Ấm bao giờ cũng có ít ra là hai ấm đồng đun nước. ấm nước sôi nhắc ra khỏi lò than là đã có chiếc ấm thứ hai đặt lên đấy rồi. Và hai ấm đồng đó cứ được mãi mãi thay phiên nhau đặt lên lò than đỏ rực, vì bữa nước trà cứ kéo dài không hết hồi. Như thế lúc nào người ta cũng có một thứ nước sôi đủ độ nóng để pha một ấm trà ngon.

Nhưng có mấy khi cụ Ấm b tầu một cách tàn nhẫn như vậy. Riêng về phần cụ, chỉ hai chén con là đủ rồi.Nhưng hai chén đó đã được cụ săn sóc đến nhiều quá.

Chưa bao giờ ông già này dám cẩu thả trong cái thú chơi thanh đạm. Pha cho mình cũng như pha trà mời khách, cụ Ấm đã để vào đấy bao nhiêu công phu. Những công phu đó đã trở nên lễ nghi, nếu trong ấm trà pha ngon, người ta chịu nhận thấy một chút mùi thơ và một tị triết lý và tâm lý.

Cụ Ấm sau mỗi lần gặp phải một ông khách tạp,uống trà rất tục, cụ thường nói với vài bạn nhà nho:

- Có lẽ tôi phải mua ít chén có đĩa ở hiệu Tây, để mỗi khi có mấy thày làm việc bên Bảo Hộ tới thì đem ra mà chế nước pha sẵn trong bình tích. Các cụ cứ suy cái lẽ một bộ đồ trà chỉ có đến bốn chén quân thì các cụ đủ biết cái thú uống trà tầu không có thể ồn ào được. Lối giao du của cổ nhân đạm bạc chứ không huyên náo như bây giờ. Chỉ có người tao nhã,cùng một thanh khí, mới có thể cùng ngồi bên một ấm trà. Những lúc ấy, chủ nhân phải tự tay mình chế nước, nhất nhất cái gì cũng làm lấy cả, không dám nhờ đến người khác, sợ làm thế thì mất hết cả thành kính. Tôi còn nhớ hồi nhỏ, còn là học trò quan Ðốc, tôi đã được cái vinh dự sớm dậy, sớm nào cũng như sớm nào, đứng hầu trà cụ Ðốc, trước khi củ giảng bài và chấm cho anh em tập quyển.Nhiều người đã ghen tị với tôi và kêu ca với cụ Ðốc xin để cắt lượt học trò hầu trà, cho anh em ai nấy đều được chút vinh dự gần gũi thày và sớm chiều được gần cái đạo của thày. Quan Ðốc mỉm cười: "Thày giã ơn các anh. Thày nói thì các anh đừng giận:các anh không pha trà cho hợp ý thày được đâu. Ðể thời giờ ấy mà học. Anh Ðam - (trước kia tôi là Ðởm, sau sợ phạm húy nên cụ Ðốc mới đổi tên đi cho) - anh Ðam pha trà khéo thì thày để cho giữ việc hàu thày, chứ có phải thày yêu anh Ðam hơn hay là ghét các anh hơn đâu". Bây giờ mỗi buổi trà sớm, ngồi uống một mình, tôi cứ nhớ cái tiếng ngâm của quan Ðốc. Sớm nào dậy, cụ cũng ngâm một vài bài thơ. Giọng thật rền, thật trong. Cụ hay ngâm mấy câu này:

Bán dạ tam bôi tửu.

Bình minh sổ chản trà.

Mỗi nhật ừ... ừ... đều được ... y... như thử.

Lương y bất đảo gia.

Một buổi sớm, thấy rõ lòng thày là vui vẻ, tôi đã mạn phép đọc để cụ Ðốc chữa cho bài diễn nôm:

Mai sớm một tuần trà.

Canh khuya dăm chén rượu.

Mỗi ngày mỗi được thế,

Thày thuốc xa nhà ta.

Cụ Ðốc tạm cho là được.

Sớm nay, cụ Ấm cũng ngâm thơ. Cụ tin rằng ngâm thơ lúc yên lặng, lúc mới tỉnh giấc là một cách vận động thần khí kỳ diệu nhất của một người sống bằng cuộc đời tâm tưởng bên trong. Mỗi buổi sớm ngâm như thế là đủ tiết hết ra ngoài những cái nặng nề trong thân thể và để đón lấy khí lành đầu tiên của trời đất. Âu cũng là một quan niệm về vệ sinh của thời cũ. Và người xưa uống trà là để giữ mình cho lành mạnh.

Thường hay vấn mình để sửa mình vào những giờ uống trà tầu, cụ Ấm thường nghĩ đến câu nghìn xưa của thày TăngTứ: "Ngô nhật tam tỉnh ngô thân".

Trong nhà cụ Ấm  người ta đã ồn ào thức dậy.Cụ Ấm cũng bắt đầu ho. Chừng như hồi nãy, cụ đã tự nén hơi thở không dám ho, sợ làm đục mất cái phút bình lặng huyền bí của lúc đêm và ngày giao nhau.

Người con trưởng dón dén lại thỉnh an cha già và mon men ngồi ghé vào thành chiếc sập cũ. Chàng đỡ lấy quạt, nhắc hỏa lò ra một chỗ rộng, quạt mạnh cho hế tàn than.

- Thày uống xong rồi. Con uống thì pha mà uống.Trà còn đợm hương lắm.

Câu nói này là thừa. Vì sớm nào hai cha con ông Ấm chẳng dậy sớm để uống trà, cha bao giờ cũng uống trước hai chén và người con cả uống sau nhiều lắm đến ba chén là cùng. Sớm nay,cũng như lúc thỉnh thoảng của mọi ngày, cụ Ấm lại bắt người trưởng nam giở tập Cổ Văn ra bình lại cả bài "Trà Ca" của Lư Ðồng. Giọng bình văn tốt quá. Ðiệu cổ phong trúc trắc thế màcon cụ Ấm lại còn ngâm gối hạc bắt đoạn cuối một câu trên xuống luôn đầu câu dưới, hơi ngâm trong và dài. Trông hai tra con uống nước mà y như là một đôi thày trò vào một giờ học ôn buổi sớm mai. Chuyện vãn mãi về trà tầu, ông cụ Ấm lại mang luông cả tập"Vũ Trung Tùy Bút", giảng những đoạn công phu của tác giả -ông Quốc Tử Giám Tế Tửu Phạm Ðình Hổ - chiêm nghiệm và xưng tụng về trà tầu. Rồi cụ Ấm liền than tiếc đến cái mùa thu đã đi mất rồi, để sen hồ rách hết tàn rũ hết lá.

- Cả ạ, thày cho nước pha trà không gì thơm lành bằng cái thư nước đọng trong lá sen. Mỗi lá chỉ có ít thôi. Phải gạn vét ở nhiều lá mới đủ uống một ấm. Hồi thày còn ít tuổi, mỗi lúc được quan Ðốc truyền cho đi thuyền thúng vớt những giọt thủy ngân ấy ở lá sen mặt đầm, thày cho là kỳ thú nhất trong đời một người học trò được thày học yêu như con.

Trong gia đình cụ Ấm,  hồi gần đây đã lập lại cá phong tục uống trà. Có một hồi bần bách quá, cụ Ấm đã cất hẳn bộ đồ trà vào tủ, tưởng không bao giờ được bày nó ra hằng ngày nữa.Nhưng trời kể cũng còn hậu đãi người hàn nho,thế nào năm nay cụ Ấm lại được mùa cả hai vụ.

- Này cả, con lên tỉnh mua trữa lấy ít trà Lý Tú Uyên. Năm nay ta ướp thêm vài chục chai để dành. Thủy tiên nhà,năm nay gọt những một lắp đấy. Thày mua chung với cụ Kép xóm dưới! Ðộ mai kia thì giò hoa tách hết màng. Củ nào hoa kép thì đem ủ trà.

- Thưa thày, con tuởng trà cứ để nguyên hương của nó mà uống. Con thấy ông ngoại nhà không bao giờ cho ướp trà mới, bấy cứ là với hoa thơm nào. Ông ngoại con bảo chỉ nên ướp,là lúc trà đã đi hương hoặc gần phát du.

Trời rạng dần. Một chút nắng đào lóng lánh trong đám cây đang rụng dần lá năm cũ, một chiếc lại một chiếc. Ðạo mạo trong vành khăn nhiễu quấn dố, cụ Ấm đã chống gậy ra đi.Cụ quay trở lại dặn người con trưởng đang hí hoáy lau bộ khay trà:

- Thày vào trong cụ Ðiều để rồi cùng sang làng bên thăm một con bệnh già. Con bệnh này, tốn nhiều sâm lắm. Ðến tối thày mới về, vì thày phải sao tẩm thuốc sống ở bên ấy cho tiện.

Tác giả; Nguyễn tuân

Dược tính của Trà xanh

Hình ảnh: Nguồn Internet

      Theo thống kê, mỗi năm người Mỹ uống khoảng 2.25 tỉ gallon trà dưới mọi dạng thức: nóng, nguội, bỏ đá, ướp hương, có đường hay không đường, thêm mật ong, sữa, kem, chanh. Mỗi lượng trà uống trung bình chứa khoảng 40 milligram caffeine (bằng nửa caffeine trong cà phê). Thế nhưng đó chỉ là con số chia đều chứ uống trà mỗi người uống một cách, đậm nhạt khác nhau. Hiện nay trên thị trường có cả loại “decaffeinated tea” và nhiều loại dược trà dùng các loại lá (lá ổi, lá hồng ...) để trị bệnh và làm tan mỡ. 

      Những thống kê kinh tế cho thấy người Mỹ chuyển dẩn từ uống nước ngọt sang loại diet softdrink, sang nước lạnh (nước suối, nước cất ...) và dần dần sang loại trà hay dược trà (herbal tea). Nếu quả như thế, hóa ra Đông phương đã đi trước Tây phương một bước xa. Ông cha ta đã uống nước lạnh và uống trà tươi hàng ngàn năm trước nhưng mãi đến bây giờ nhân loại mới công nhận một cách khoa học là trà xanh (chưa biến chế theo kiểu Nhật) và nước lã là tốt nhất cho cơ thể.


     Nhiều người cho rằng uống trà có tác dụng làm giảm đau cổ họng và bớt đầy bụng. Một hóa chất trong trà là chất polyphenols có thể làm giảm nguy cơ một số chứng bệnh kể cả bệnh cứng mạch máu (atherosclerosis) và một số bệnh ung thư. Có người còn cho là uống trà sẽ gia tăng tuổi thọ.

[Chè Thái Nguyên] - Chè Thái Nguyên tự nó đã ngon rồi


Hội rước chè tại Thái Nguyên
       Người Nhật có trà đạo, người Trung Quốc có trà kinh, người Việt Nam tự hào với trà phong...
      Là văn hoá, tập quán của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc trên thế giới đều có ảnh hưởng trực tiếp đến việc thưởng trà. Ví như người Trung Quốc tự hào có vùng chè nổi tiếng ở Hồ Nam, Hồ Bắc, Chiết Giang... thì người Việt Nam tự hào có vùng chè Lâm Đồng, Yên Bái, Phú Thọ...

     Nhưng ngon nhất, nổi tiếng nhất nước vẫn là chè Thái Nguyên - vùng quê nửa đồng, nửa núi có câu chuyện tình huyền thoại chàng Cốc, nàng Công, tha thiết yêu đương mà không có phận. Để chàng Cốc hoá Núi, nàng Công hoá dòng nước tắm tưới cho vùng đất Thái Nguyên nên thơ - Sản sinh ra cây chè, bền bỉ chắt gạn từ lòng đất vị tinh tuý một tình yêu thuỷ chung.

       Nhẩn nha uống trong đêm hội, bạn bè người tỉnh ngoài chợt bật lên câu hát về chuyện tình nàng Công, chàng Cốc, đằm thắm, dịu ngọt mà chát đắng thứ menb được tắm tưới bằng nước mắt của tình yêu.
        Cũng bởi lẽ khát khao quyện hoà tình yêu đôi lứa, như khí hậu, đất đai dung hoà làm nên một thứ trà khi tra vào ấm thấy vị cốm thơm của lúa nếp mùa tháng mười, rót ra chén có màu xanh sóng sánh của ngọc lam, đặt chớm môi cảm nhận được vị chát, đắng theo đầu lưỡi vào huyết quản, rồi từ đó dư vị ngọt lan toả ngược trở ra.

        Cũng bởi thứ trà thơm ngon thuộc diện “đệ nhất” cả nước, nên đã là người Thái Nguyên, có mấy ai không tự hào về cây chè quê hương mình. Dù đi tới chân trời, góc bể, người Thái Nguyên thường mang theo bên mình ấm trà đãi đằng bạn tứ phương.

Vâng! Tình yêu của con người dành cho nhau, và dành cho thiên nhiên. Cụ thể hơn thì đó là tình yêu của người Thái Nguyên dành cho cây chè. Minh chứng tình yêu ấy được trải nghiệm từ hàng trăm năm nay, qua bao phen “vật đổi sao rời”, người Thái Nguyên vẫn gắn bó với cây chè như bầu bạn tri âm, tri kỷ.

      Cả thời đoạn ngăn sông, cấm chợ, nông dân Thái Nguyên chưa sống được nhờ nguồn thu từ cây chè. Song bên từng hàng chè uốn lượn như vòng tay ôm lấy lưng đồi, người nông dân vẫn bươn bả cùng mưa, nắng chăm lo cho cây chè nảy búp xanh. Rồi, đất nước đổi mới, Nhà nước có chính sách thông thương, cây chè như người nằm ngủ lâu ngày, bật dậy, nhanh chóng trở thành một loại hàng hoá mang lại thu nhập cao cho người lao động.

Thưởng thức trà Thái Nguyên
     Bởi thế, từ những năm 1990 trở lại nay, cây chè được các cấp, ngành quan tâm đầu tư. Trực tiếp là người nông dân đã dành hầu hết những khu đồi đất rặt cỏ tranh, cỏ chỉ hoang hoá, hoặc vườn cây có giá trị kinh tế thấp được chuyển đổi sang trồng chè. Đến đầu mùa Xuân năm con Rắn 2013, lật sổ bộ thống kê của ngành nông nghiệp, toàn tỉnh đã có hơn 17.000 ha chè, 16.000 ha đang cho thu hoạch, với năng suất ổn định 107 tạ/ha.

Năng suất chè ổn định, đương nhiên sản lượng cũng không thay đổi, đạt khoảng hơn 170.000 tấn búp tươi/năm, bằng gần 35.000 tấn chè búp khô. Bấm đốt tay làm phép quy đổi giản đơn, nếu mỗi cân chè bán được 200.000 đồng (giá trung bình tại thời điểm tháng 1/2013), mỗi năm, cây chè mang lại cho nông dân trong tỉnh số tiền 7.000 tỷ đồng chẵn. Không cần rao bán, tư thương nhiều vùng miền trong cả nước tìm về - bởi trà Thái Nguyên tự nó đã ngon rồi.

Khoan bàn chuyện các cụ nho nhã thuở xưa ẩm trà Thái Nguyên với bao kỳ công từ chọn nước dùng, ướp trà sen, pha trà đến cách thưởng ẩm. Cũng xin chưa bàn về việc kỳ công của hậu duệ bây giờ làm trà nghệ thuật đạt đỉnh giá hơn 10 triệu đồng/kg. Mà như thông tin của Hiệp Hội Chè Thái Nguyên, thì hiện dân mình đang sản xuất, chế biến chè theo 3 hình thức: Chế biến thủ công; chế biến công nghiệp và chế biến công nghệ cao.

Nhưng có lẽ với người sành trà thuần Việt, chắc chắn ấm trà ngon nhất phải được chế biến trên chiếc chảo gang truyền thống, bắt đầu từ công đoạn làm héo, làm khô đến lên mốc cho chè.
Nhưng phổ thông hơn vẫn là chế biến bán công nghiệp, bởi chè được ví như loại sản phẩm hàng hoá đặc biệt, phải có đôi bàn tay mềm mại của con người trực tiếp tác động vào mới cho được sản phẩm tinh.

Riêng lĩnh vực chế biến chè cũng có không ít chặng đường phát triển để giải phóng sức lao động con người. Xa xưa, tổ tiên mình hái lá chè mang phơi, cất, nấu nước uống dần. Khi các cụ thu hái búp non mang xao trên chảo thì có lẽ đó là một phát minh lớn đối với lịch sử ngành chè Việt Nam - phát minh đó thuộc về dân gian.
Sao chè bằng mô tơ điện
     Sau nữa, người trồng chè liên tục cải tiến cách chế biến, như việc thay chảo gang bằng tấm tôn phẳng, rồi máy tôn quay bằng sức người, sau nữa được cải tiến thêm mô tơ kéo. Rồi thay vì vò chè bằng đôi chân trần nhờ máy vò chạy điện, người trồng chè được giảm bớt mồ hôi.

      Cơ bản là cách chế biến truyền thống có thiết bị máy móc phụ trợ, nên chè Thái Nguyên, như số liệu tổng hợp của Hội Nông dân tỉnh, tại thời điểm này, sản phẩm chè của nông dân vẫn chủ yếu phục vụ người tiêu dùng trong nước.

     Số lượng chè được xuất bán ra thị trường thế giới chưa đáng kể, đạt khoảng gần 7.000 tấn/năm, chủ yếu xuất khẩu sang thị trường Pakistan, Đài Loan, Trung Quốc, Nga, Anh và Nhật Bản. Tuy chưa mang về được nhiều ngoại tệ cho quê hương, song chè Thái Nguyên không bị để tồn lưu từ năm này sang năm khác, mà luôn đắt hàng với ngay khách ẩm trong cả nước.

     Trà Thái Nguyên tự hào có hương vị riêng, dù cây chè ấy được trồng ở đất Minh Lập (Đồng Hỷ), Phúc Thuận (Phổ Yên), La Bằng (Đại Từ) hay ở các xã thuộc vùng chè Tân Cương, chè đều có dư vị mang tên trà Thái.

“Đệ nhất danh trà”, không phải người Thái Nguyên “vỗ ngực khoe của báu”, mà bởi trà Thái Nguyên tự nó toả hương đến mọi miền cả nước. Dù đi bằng con đường nào, người thưởng ẩm là ai, đại gia phong lưu hay kẻ chân trần khất thực, trà Thái Nguyên vẫn toả thơm, ngất ngây hồn vía bao con người.


Sao chè, nghề lắm công phu


      Xưa nay, đối với những người mê uống chè, mỗi khi được thưởng thức ấm chè ngon có thể coi là niềm hạnh phúc. Tuy nhiên, để có được hương vị ấy, cần rất nhiều tâm huyết, công sức của những người sao chè. 

Nhọc nhằn và kỳ công
Đó là nhận xét của bất cứ ai từng chứng kiến hay đã trải qua công việc sao chè. Công việc này đâu chỉ đơn giản là đổ chè tươi vào hộc sắt (xoong cỡ lớn) rồi đốt lửa và đợi cho khô là thành sản phẩm. Nó phải trải qua nhiều công đoạn để có những cánh chè thơm ngon, ngậy hương. Người “sành chè” có khi chỉ nhấp thử một ngụm cũng biết chè ngon hay dở, sao đủ lửa hoặc kém lửa.

    Bà Nguyễn Thị Viện ở huyện Lương Sơn (Hòa Bình), người có nhiều kinh nghiệm sao chè cho biết: “Tôi theo nghề này đã ngót 20 năm nay. Ngày trước, sao chè rất vất vả cực nhọc do phải làm thủ công. Từ khâu hái cho đến khi có được mẻ chè ngon thì đôi vai, tay, chân của người làm lúc nào cũng đen sạm. Chè hái về rồi, phải cho vào chảo gang hoặc hộc cỡ lớn sao tái, sau đó đem vò cho cánh chè cuộn lại. Vò xong lại cho vào chảo để sấy khô, chè khô rồi lại ngồi xát bằng rổ tre cho nhỏ cánh, sau đó tách ra thành từng loại chè khác nhau như: chè búp, chè cục, chè cám...”.

“Của một đồng công một nén”
Sao chè thời nay tuy nhàn hơn nhưng không phải cứ “ngồi chơi xơi nước” là ra sản phẩm. Không còn vò võ một người bỏ công sức làm từ A đến Z do có sự phân công lao động hợp lý, đưa máy móc vào sản xuất. Nhưng không có nghĩa là hết nhọc nhằn.

Cũng lại là khâu hái chè, bây giờ chè tươi khá sẵn, có thể mua được với số lượng lớn. Người đi mua phải nắm chắc giá cả, nếu không nguy cơ thua lỗ là rất cao và phải có kinh nghiệm chọn chè để biết loại nào ngon, được người tiêu dùng ưa chuộng.
Sao chè
      Anh Phạm Xuân Lộc, chủ một cơ sở chế biến chè ở tiểu khu CK2 (Lương Sơn - Hòa Bình) bộc bạch: “Thông thường khi đã có chè tươi rồi, quy trình sao, sấy phải qua 5 khâu chính: sao tái, vò cuộn, sấy khô, phân loại, đánh mốc. Nghĩa là chè tươi được cho vào lô tròn sao tái, tiếp đó chuyển sang cối để vò cho cánh chè cuộn lại rồi mới cho vào lô để sấy khô, sấy khô xong lại chuyển qua khâu phân tách từng loại chè. Cuối cùng mới chuyển vào máy để đánh mốc lấy hương cho chè”.

Đó mới là lý thuyết, còn trên thực tế, ở mỗi công đoạn lại phải thực hiện quy trình lặp lại không chỉ một lần. Ví như khâu phân loại chè, sau khi sấy khô, sẽ được đưa ra sàng, sảy cho hết những vụn nhỏ - xuất hiện trong công đoạn vò và sấy khô vì nếu để lẫn như vậy đến khi cho vào đánh mốc chúng rất dễ bén lửa, cháy khét. Mà đã cháy khét thì coi như đổ cả mẻ chè.

Đương nhiên, sao chè bằng máy năng suất lớn hơn gấp nhiều lần so với làm thủ công. Nhưng theo bài toán tỷ lệ thuận, số lượng sản phẩm cũng vì thế mà tăng lên, và do đó công sức bỏ ra cũng nhiều hơn. Đó là điều dễ nhận thấy nhất về nỗi vất vả, nhọc nhằn của người sao chè. Nhưng dù vậy, người dân các vùng chè luôn cố gắng để có mẻ chè ngon, không chỉ vì cuộc sống hàng ngày mà còn lưu giữ một nét văn hóa ẩm thực độc đáo của người Việt.

Kỹ thuật trồng chè và chăm sóc chè


Chè là cây dài ngày, chỉ một lần trồng cho thu hoạch 30-40 năm, vì vậy việc chọn giống chè tốt, phù hợp và áp dụng đúng kỹ thuật trồng sẽ cho hiệu quả cao.

1.Chọn giống

- Chọn giống chè có khả năng sinh trưởng và phát triển tốt, thích ứng mạnh với điều kiện đất trồng của địa phương.

- Là những giống có chất lượng cao, phù hợp với yêu cầu công nghệ chế biến hiện tại (chè đen, chè xanh, chè Ô long...) của thị trường.

- Giống chủ yếu phải được nhân vô tính theo biện pháp giâm cành chè trong túi bầu đất.

- Phải được trồng theo quy trình trồng trọt tiên tiến, thâm canh cao theo xu hướng tăng cường sử dụng phân hữu cơ, giảm sử dụng phân hoá học và thuốc BVTV.

2. Kỹ thuật trồng
Chọn đất trồng: Đất trồng chè phải có tầng canh tác trên 80cm, kết cấu tơi xốp; có mạch nước ngầm ở dưới mặt đất 100cm; độ dốc bình quân dưới 25o; pH 4- 6.

Mật độ: Mật độ trồng chè tuân thủ theo nguyên tắc: với giống tán nhỏ thì trồng dày, tán lớn thì trồng thưa; đất có độ dốc lớn trồng dày, dốc nhỏ trồng vừa phải; canh tác thủ công có thể trồng dày, còn dùng cơ giới phải chọn mật độ phù hợp với tính năng của máy; đầu tư phân bón cao, có tưới nước trồng mật độ vừa phải; chu kỳ kinh doanh theo hướng nhanh thu hồi vốn thì trồng mật độ dày.

Cách trồng:
- Trồng chè cành: trên rạch chè đã bón phân lót và lấp đất ta bổ hố rộng 20cm, sâu 20-25cm, khoảng cách giữa các hố dày hay thưa tuỳ yêu cầu; bóc túi PE, giữ nguyên bầu đất, đặt bầu chè quay theo hướng thuận lợi, lấp đất lèn chặt xung quanh, rồi lấp một lớp đất tơi xốp kín lên mặt bầu 1cm, sau trồng tủ cỏ rác theo rạch chè rộng 40cm và tưới cho chè; thời vụ trồng từ tháng 8-10.

- Trồng chè hạt: ngâm hạt trong nước 12 tiếng trước khi gieo; có thể gieo ngay hoặc ủ trong cát cho nứt rồi đem gieo; những rạch chè sâu 10cm được bón lót và lấp đất: gieo 4-6 hạt/hốc, lấp đất sâu 3-4cm; sau đó tỉa những cây xấu, còn 2-3 cây/cụm, tủ cỏ rác để giữ ẩm; thời vụ trồng hạt tốt nhất từ 15-10 đến 15-2.

Chăm sóc chè
Chăm sóc: Dự trữ một lượng giống chè để trồng dặm bằng 10% số cây đã trồng. Thường trồng dặm vào tháng 8-9 và 2-3, chọn ngày râm mát, đất đủ ẩm để trồng. Trồng dặm kích thước hố 30x30x30cm; bón 1kg phân chuồng hoai/hố; đặt bầu cây, lấp đất, lèn chặt, phủ đất mỏng lên trên, tủ gốc bằng cỏ rác.

- Với chè kiến thiết cơ bản tuổi 2-3 có thể trồng dặm bằng bầu to với kích thước túi PE 18x25cm với tỉ lệ 3 phần đất + 1 phần phân (0,3kg P/C + 20g lân/bầu); chọn giống chè cùng nương chè trồng dặm 9- 10 tháng tuổi, thời gian ươm 7-8 tháng.

Phòng trừ cỏ dại:
- Tủ gốc chè bằng cỏ, rác, cây phân xanh... để hạn chế cỏ dại; xới phá váng sau mỗi trận mưa to.
- Làm cỏ vụ xuân tháng 1-2 và vụ thu tháng 8-9, xới sạch toàn bộ diện tích một lần/vụ; một năm xới gốc 2-3 lần.

Nước chè, kẹo lạc và hạnh phúc bình dị

     Trời mưa, với những gia đình khác thì buồn tẻ nhưng với gia đình tôi thì lại là cơ hội để để cả nhà ôn lại kỷ niệm và những câu truyện ngày xưa của bố mẹ. Ngày đó mẹ tôi thường làm món kẹo lạc vừng, vì đó là món "  tủ"  của mẹ.

     Để bắt đầu làm món kẹo lạc mẹ và tôi đã phải chọn những hạt lạc mẩy và ngon nhất rồi mang  mang rang lên thơm phức, rang xong mẹ trà những hạt lạc với nhau rồi xẩy thật sạch vỏ. khi đã sạch rồi mẹ lại cho vào chảo và đổ mật mía lên, mẹ không quên cho thêm ít gừng tươi đã giã nát và quấy đều lên, sau đó mẹ rác những hạt vừng thơm ngon lên trên cùng, đun một lúc thì mật mía và lạc và vừng quánh lại với nhau nhìn rất hấp dẫn và mùi hương tỏa ra thơm phức.


      Chiếc mâm nhôm và bột thính ( gạo rang chín rồi xay thành bột) đã được mình chuẩn bị xong, mình rác một lượt bột thính xuống mâm và mẹ đổ keọ ra, lúc này kẹo rất dẻo và phải đợi cho nó rắn lại. chỉ khoảng 30 phút sau là cả mảng kẹo to đã rắn lại. Khi đó bố tranh thủ pha ấm trà nóng để trên bàn rồi mang dao ra để cắt kẹo lạc thành từng miếng vuông nhỏ, mẹ lại lấy bột thính để rác vào kẹo thêm lần nữa để tránh không cho kẹo dính vào nhau và vậy là quá trình làm kẹo của cả nhà mình đã xong, mình sắp kẹo ra đĩa để chuẩn bị tiệc "Trà nóng - Kẹo lạc" của gia đình. 3 đứa em của mình xí xớn chạy xung mấy đĩa kẹo lạc với vẻ thích thú và tán dương tài nấu kẹo lạc của mẹ. Bố cũng thừa cơ nịnh hót mẹ "Ai  làm kẹo mà ngon thế?" mình thấy niềm hạnh phúc và vẻ tự hào trong mắt mẹ, cả nhà mình cười thật to và quây quần ở ngoài mái hiên. Ấm trà của bố vừa pha dường như đã ngấm hết tới từng cánh trà, mình ngồi rót trà cho bố mẹ, hương thơm của trà cùng với mùi thơm của kẹo lạc hòa lẫn với tiếng cười của gia đình làm mình cảm xúc của mình trào dâng, thật ấm ám và hạnh phúc.


     Ăn một miếng kẹo lạc ròn tan có mùi thơm bùi bùi của lạc quyện với hương vị của gừng và uống thêm một ngụm trà thơm ngát, vị ngọt của kẹo kết hợp với vị chan chát của của nước chè làm mình thích thú lắm. Cả nhà vừa ăn, uống vừa nói chuyện rôm rả và cười vui vẻ, Những lúc như vậy mình thấy cuộc sống sao đẹp thế? bố mẹ dường như quên đi hết nhọc nhằn để nuôi 4 đứa con ăn học mà chỉ còn lại tiếng cười hạnh phúc.


       Khi lớn lên, đi học nơi đô thị, mình nghĩ rằng tập tục đó không có ở nơi này mà chỉ có ở quê mình, nhưng không phải vậy, nét đẹp đó vẫn còn ở trên những vỉa hè Hà Nội, đó là những quán "Trà đá" nhỏ, chỉ khác là không phải  kẹo lạc đơn thuần như mẹ mình làm mà là kẹo lạc làm từ các công ty sản xuất bánh kẹo với nhiều mẫu mã khác nhau nhưng hương vị bùi bùi, ngậy ngậy của kẹo lạc thì vẫn còn nguyên đó, còn trà thì cũng có nhiều loại trà hơn và đặc biệt là có thêm trà đá mà ở quê mình chưa bao giờ uống.

      Mỗi lần nhớ quê mình thường rủ mấy đứa bạn ra quán trà đá - kẹo lạc ở cổng trường ngồi nhâm nhi, hàn huyên tâm sự, và quán trà đó bao giờ cũng đông khách và nhiều tiếng cười